Thứ bảy, 20/03/2021 20:20 (GMT+7) (ĐCSVN) - Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời lúc 16h45 ngày 20/3 tại nhà riêng sau một thời gian chống chọi với bệnh đột quỵ. Ông hưởng thọ 71 tuổi. Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29/4/1950 tại huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông là nhà văn đương đại Bên cạnh những thiệp mời đơn giản vốn quen thuộc với mọi nhà thì không ít cặp đôi sao Việt đã biến thành chính câu chuyện cũng như phong cách rất riêng của mình. Từ cuốn truyện cổ, poster phim hay tờ báo đến tấm bưu thiếp… cũng khiếm mọi người thích thú. Mới đây Hồ Anh Thái: "Nhà văn đích thực là người đa phong cách" Nguyễn Huy Thiệp sinh ra tại Thái Nguyên nhưng là người gốc thôn Khương Hạ, 25 Th3. Nguyễn Huy Thiệp: Bóng dài đổ mãi 'Thể xác tan rồi. Như sương khói trong đôi mắt ông kia. Những câu chuyện và nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp đã bước thẳng vào não trạng cả triệu lứa sinh nửa đầu 7x như tôi. Những nhân vật của Thiệp ngạo nghễ ném ánh mắt thương hại cùng cái cười nhếch mép dành cho bọn trẻ vốn đang nhìn cuộc sống bằng cái nhìn đơn 1.Yêu cầu của cách mạng Việt Nam và sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam Năm 1884, nhà Nguyễn đã ký Hiệp định Patanot đầu hàng thực dân Pháp. Nền độc lập dân tộc Việt Nam đã mất. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã phải Vả lại, sách của ông chưa được dịch một cách có hệ thống sang Anh ngữ là rào cản lớn. 3. Nguyên thủ quốc gia, chủ tịch nước từng học tổng hợp Văn, là giáo sư, chắc chắn phải biết Nguyễn Huy Thiệp, bông hoa sen rạng rỡ không chỉ của Đồng Tháp Mười. enIMm3. Vanvn- Nguyễn Huy Thiệp được xem là một hiện tượng tiêu biểu của Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XX. Những sáng tác của ông, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn, đã mang đến một làn gió mới cho đời sống văn chương đương đại. Có rất nhiều ý kiến tranh luận xung quanh tác giả đặc biệt này. Khen cũng nhiều mà chê trách, lên án cũng không ít. Trong bài viết này, chúng tôi không nhằm đánh giá cái hay cái dở của ông, chỉ mong “điểm danh” những yếu tố nổi bật về mặt phong cách trong địa hạt truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, góp phần giúp độc giả có thêm những đường kênh đa dạng trong việc khám phá, đánh giá ông. Vấn đề phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất rộng. Nếu khai thác đến nơi đến nơi đến chốn thì mỗi nét đặc trưng trong phong cách của ông xứng đáng phải nằm trong một chuyên luận dài hơi. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chủ ý đi theo “bề rộng” chứ không khai thác sâu. Việc đi sâu khai thác từng khía cạnh chúng tôi sẽ trình bày trong dịp khác. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp 1950 – 2021 Tư liệu khảo sát của chúng tôi là 37 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp in trong tập “Nguyễn Huy Thiệp – Truyện ngắn” được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2003. Đây được xem là toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Huy Thiệp ở thể loại truyện ngắn. Cũng cần nói thêm, có những truyện ngắn tác giả phân ra thành nhiều truyện nhỏ bên trong như Con gái thủy thần 3 truyện nhỏ, Những ngọn gió Hua Tát 10 truyện nhỏ, chúng tôi chỉ tính một truyện. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có những nét nổi bật về phong cách sau đây 1. Giọng văn lạnh lùng, không sắc thái biểu cảm Đây có thể được xem là nét nổi bật nhất trong phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Với giọng văn “lạnh”, tác giả đã thể hiện một thái độ dửng dưng tuyệt đối đối với nội dung tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm. Qua giọng văn ấy, thế giới nhân vật, nội dung câu chuyện luôn hiện ra một chất trung thực, khách quan trước mắt người đọc. Người đọc được tách biệt hoàn toàn so với thiên kiến của tác giả. Độc giả được tự do phán xét nhân vật theo chủ kiến của mình. Trong nhiều truyện ngắn Không có vua, Những bài học nông thôn, Tướng về hưu… tác giả cũng nhập vào vai người kể chuyện nhân vật xưng “tôi” nhưng vẫn cố ý tách ra khỏi câu chuyện để đảm bảo tính khách quan. Để tạo ra được giọng văn lạnh, Nguyễn Huy Thiệp dùng nhiều câu trần thuật ngắn gọn, súc tích, mang đậm tính liệt kê. Nguyễn Huy Thiệp rất chuộng dùng câu đơn. Đối với loại câu đơn có xuất hiện thành phần phụ thì thành phần phụ thường được tách ra bằng dấu phẩy. Riêng câu ghép, các vế cũng được tách ra rạch ròi. Điển hình “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…” Tướng về hưu; hay “Cấn là con trưởng. Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một, hai tuổi. Đoài là công chức ngành giáo dục, Khiêm là nhân viên lò mổ thuộc Công ty thực phẩm, Khảm là sinh viên đại học. Tốn, con út, bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng. Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông.” Không có vua Có thể nói, những câu văn sắc lạnh dửng dưng như thế có mặt khắp các trang văn của Nguyễn Huy Thiệp. Nó tạo cho tác giả một nét riêng độc đáo về phong cách. 2. Đưa thơ vào văn xuôi làm tăng hiệu ứng thẩm mỹ Trong số 37 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được chúng tôi khảo sát thì có tới 26 truyện tác giả có đưa thơ vào chiếm tỉ lệ 70,3%. Điều này cho thấy, việc đưa thơ vào văn xuôi có thể được xem là một đặc trưng trong phong cách của ông. Về nguồn gốc những câu thơ trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy có những đặc điểm sau đây – Thơ mượn của các nhà thơ khác, như trong các truyện Sang sôngmượn thơ Nguyễn Gia Thiều; Chút thoáng Xuân Hương mượn thơ Hồ Xuân Hương; Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt mượn thơ Nguyễn Bính;Nguyễn Thị Lộ mượn thơ Nguyễn Trãi, Kiếm sắc mượn thơ Nguyễn Du; Giọt máu mượn thơ Trần Tế Xương… – Thơ do chính Nguyễn Huy Thiệp sáng tác, như trong các truyện Tướng về hưu; Chảy đi sông ơi; Những bài học ở nông thôn; Huyền thoại phố phường… – Những câu thơ ca dân gian được nhà văn sử dụng lại theo cách của mình, điển hình trong các truyện Con gái thủy thần; Những người thợ xẻ… Về đặc điểm sử dụng thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy có những nét nổi bật sau – Thơ được dùng làm đề từ, điển hình trong Con gái thủy thần; Chương Chi; Những người thợ xẻ, Phẩm tiết… – Thơ được dùng làm lời hát của các nhân vật, điển hình trong Tướng về hưu, Chương Chi, Những bài học nông thôn; Phẩm tiết… – Thơ là dòng suy nghĩ của nhân vật, điển hình như Những bài học nông thôn suy nghĩ của nhân vật Lâm; Sang sông suy nghĩ của nhân vật ông giáo; Thương nhớ đồng quê suy nghĩ của nhân vật xưng “tôi”; Chăn trâu cắt cỏ suy nghĩ của nhân vật Năng… – Cá biệt, trong truyện ngắn “Tội ác và trừng phạt”, Nguyễn Huy Thiệp dùng thơ thay cho bài tụng của vị sư Lục tổ Huệ Năng. Có thể thấy, việc sử dụng thơ song hành với văn xuôi trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra những hiệu ứng thẩm mỹ và đặc trưng rõ nét về phong cách. Điều này tạo nên tính giao thoa, sự hòa quyện giữa thơ và văn xuôi. Đó là sự dung hòa tuyệt diệu giữa một thể loại mang đậm tính tự sự và một thể loại mang đậm tính trữ tình. Mặt khác, nó góp phần phá vỡ tính cứng nhắc về nguyên tắc thể loại, giúp tác giả có điều kiện thể hiện đa chiều tư tưởng của mình. Cũng cần nói thêm, việc đưa thơ vào văn xuôi không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, các tác giả trước đây chủ yếu lấy thơ làm đề từ cho văn xuôi Như trong Tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân hoặc đưa thơ vào văn với một tỉ lệ khiêm tốn. Đến Nguyễn Huy Thiệp, tác giả đã sử dụng thơ như một phương tiện nghệ thuật độc đáo và tạo được hiệu ứng thẩm mỹ rõ nét. 3. Kết cấu truyện đặc biệt Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hầu như chỉ đi theo dòng thời gian tuyến tính. Rất ít sự xáo trộn về mặt kết cấu trong nội bộ câu chuyện. Song, nếu khảo sát kỹ, ta sẽ thấy có điều đặc biệt trong cách mở đầu và kết thúc ở mỗi truyện. Cụ thể, nhà văn thường dùng cách mở đầu mỗi truyện theo lối truyền thống. Lối mở đầu này gần giống như các truyện dân gian truyện cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn…. Có nghĩa là nhà văn sẽ giới thiệu những nét chung nhất về các nhân vật có mặt trong truyện. Cách giới thiệu của Nguyễn Huy Thiệp thường ngắn gọn, súc tích nhưng mang tính khái quát cao. Ví dụ Trong truyện ngắn Sang sông, tác giả mở đầu “Sang đò có một nhà sư, một nhà thơ, một nhà giáo, một tên cướp, hai tên buôn đồ cổ, hai mẹ con, một cặp tình nhân và chị lái đò.” Chỉ bằng một câu văn, tác giả đã liệt kê hết tất cả nhân vật có mặt trong truyện. Người đọc dễ dàng bao quát hết nhân vật khi bắt đầu tiếp cận tác phẩm. Hay “Nửa đầu thế kỷ trước, ở Kẻ Noi, huyện Từ Liêm có ông Phạm Ngọc Liên là bậc đại phú. Ông Liên xây nhà trên miếng đất đầu làng. Miếng đất này bằng phẳng, rộng ba sào hai thước.” Giọt máu; “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…” Tướng về hưu. Trái với cách mở đầu mang tính truyền thống, kết thúc của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn là kết thúc mở. Đặc biệt, ở nhiều truyện, nhà văn tạo dựng nhiều giả thuyết khác nhau cho đoạn kết câu chuyện. Điều này thể hiện rõ nét tính khách quan trong phong cách Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả cho phép người đọc tự do chọn lựa một kết cục phù hợp chứ không áp đặt. Kết thúc mở được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng nhiều trong nhóm truyện đề tài lịch sử. Điển hình như trong Kiếm sắc, nhân vật Lân đã bị Nguyễn Phúc Ánh xử chém bằng thanh kiếm thần. Tuy nhiên, tác giả lại “chua” thêm một đoạn, kể về giai thoại Đặng Phú Lân và Ngô Thị Vinh Hoa trốn vua Gia Long lên Đà Bắc, giờ vẫn còn con cháu sống trên vùng ấy. Riêng trong truyện ngắn Vàng lửa, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra 3 đoạn kết khác nhau cho câu chuyện. Đoạn kết 1 nhân vật Phăng bị vua Gia Long đầu độc chết. Đoạn kết 2 Nhân vật Phăng được vua Gia Long cho hồi hương về Pháp và sống đến già trong vinh hoa phú quý. Đoạn kết 3 tác giả không nhắc đến nhân vật Phăng, chỉ cho là Gia Long không muốn người đời biết được mối quan hệ của nhà vua với người châu Âu. Có thể thấy, với ba kiểu kết thúc như vậy, Nguyễn Huy Thiệp đã hoàn toàn tách mình ra khỏi vai trò phán quyết đối với các nhân vật trung tâm. Quyền ấy được trao lại cho độc giả. Trong nhiều truyện khác, tác giả cũng có cách kết thúc mở tương tự. Để tạo ra kết thúc mở, Nguyễn Huy Thiệp thường dùng những yếu tố mang tính hư cấu, mang đậm chất huyền thoại hoặc những lời đồn không đáng tin cậy. Ta có thể bắt gặp điều này trong các truyện Chảy đi sông ơi; Con gái thủy thần, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết… 4. Sự nhào nặn lịch sử gây nhiều tranh cãi Khi điểm qua những nét nổi bật về phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, thiết nghĩ cần phải nhắc đến vấn đề sử dụng các cứ liệu lịch sử trong sáng tác của ông. Mặc dù vấn đề này trước đến nay đã gây ra khá nhiều ý kiến tranh cãi, phần lớn là phê phán, song chúng tôi vẫn nhận thấy đây là một vấn đề cần nhìn nhận một cách thấu đáo dưới góc nhìn phong cách học. Về phương diện này, ta thấy Nguyễn huy Thiệp chỉ thể hiện chủ yếu trong ba truyện ngắn Kiếm sắc, Vàng lửa và Phẩm tiết. Giới nghiên cứu thường gọi đây là nhóm truyện lịch sử của ông. Ba tác phẩm được tổ chức thành một chùm truyện, có sự liên kết về nội dung, cốt truyện, tình tiết. Truyện xoay quanh các nhân vật lịch sử Gia Long Nguyễn Ánh, Quang Trung Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du… Có nhiều ý kiến cho rằng, việc nhà văn phản ánh khá “trần tục” các nhân vật lịch sử vốn là tượng đài trong tâm thức cộng đồng giống như một hành động “làm méo mó lịch sử”. Tuy nhiên, chúng tôi nhìn nhận vấn đề này ngược lại. Thứ nhất, một yếu tố lịch sử khi được sử dụng, phản ảnh, nhào nặn trong một tác phẩm văn chương nghệ thuật thì ta không nên đồng nhất đó là lịch sử. Mà thực chất, đó chỉ là cách đánh giá chủ quan của nhà văn về một sự kiện, một nhân vật lịch sử nhất định. Đánh giá của nhà văn có thể giống hoặc khác cộng đồng. Thứ hai, Nguyễn Huy Thiệp không hề sử dụng các cứ liệu của chính sử để viết mà ông chỉ dùng những tư liệu mang tính hư cấu, những giai thoại dân gian, những lời đồn đoán mang tính huyền thoại để viết. Đây không thể xem là xuyên tạc lịch sử mà chỉ là một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt trong phong cách nhà văn. Thứ ba, trong quá trình sáng tác, nhà văn luôn chú trọng đến yếu tố tiền giả định. Trong 3 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp kể trên, tiền giả định là các “cứ liệu lịch sử” thời Gia Long. Tuy nhiên, ta nhận thấy, nhà văn đã sử dụng những tiền giả định này như một phương tiện nghệ thuật nhằm tạo hiệu ứng cho tác phẩm. Cụ thể, nhà văn đã nhào nặn, đã làm khác đi tiền giả định nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ, hướng đến những nội dung mới lạ, sâu sắc hơn. Thứ tư, nếu tác phẩm văn học mà phản ánh lịch sử một cách nguyên xi thì nó không còn là tác phẩm văn học, nó sẽ trở thành văn bản ghi chép lịch sử. Tạo ra loại văn bản ấy không phải nhiệm vụ của nhà văn mà là nhiệm vụ của nhà sử học. Tác phẩm văn học phải thể hiện một lăng kính khác, một hướng khai thác khác của nhà văn về những điều hiển nhiên của lịch sử. Có như vậy, tác phẩm mới xứng đáng mang một sứ mệnh nghệ thuật cao cả. Từ những phân tích trên, chúng tôi cảm thấy nên ghi nhận việc đưa các yếu tố lịch sử vào truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp như một thủ pháp nghệ thuật, không nên dùng các chủ kiến “phi nghệ thuật” để đánh giá nhóm tác phẩm này như một số học giả đã làm. Thay lời kết Như đã trình bày ở trên, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi rất khó để chuyển tải một cách toàn diện, thấu đáo những đặc trưng về phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, với những kiến giải trong bài viết, người đọc chắc chắn ít nhiều nhận ra những nét riêng trong trang văn của tác giả tài hoa này. Tạo ra một nét riêng, độc đáo về phong cách là điều mà mọi nhà văn luôn muốn hướng đến. Bởi lẽ, đó được xem là dấu hiệu đánh dấu sự khác biệt của nhà văn này với nhà văn khác, là sự khẳng định giá trị của mỗi nhà văn. Nguyễn Huy Thiệp đã tạo dựng cho mình một chỗ đứng trang trọng trên văn đàn nhờ dấu ấn phong cách của ông. Mặc dù còn nhiều ý kiến trái chiều, nhưng chúng tôi vẫn muốn khẳng định Nguyễn Huy Thiệp là cây bút truyện ngắn số một trong nền văn học Việt Nam từ ngày đất nước thống nhất đến nay. TRƯƠNG CHÍ HÙNG Đại học An Giang __________________________ Tài liệu tham khảo 1 Nguyễn Hồng Dũng. Thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ranh giới và sự xâm nhập thể loại, hiệu ứng thẩm mỹ. Kỷ yếu hội thảo khoa học. NXB Đại học Sư phạm Tp. HCM. 2011 2 Định Trọng Lạc. 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt. NXB Giáo dục. 2003 3 Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa. Phong cách học tiếng Việt. NXB Giáo dục. 1998 4 Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn. NXB Trẻ. 2003 Xem thêm Nhà thơ Mã Thế Vinh Cái riêng trong cái chung Kiếm tìm sự lộng lẫy từ vết thương thân phận Chùm thơ Khang Quốc Ngọc Kí ức hiện về rát buốt những đòn roi Chùm thơ Mai Hương Giữa ngổn ngang chữ nghĩa Chat GPT có khả năng vi phạm bản quyền nhiều tác phẩm văn học Tài liệu Đặc điểm ngôn ngữ người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Số 8 238-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 103 NGÔN NGỮ VỚI VĂN CHƯƠNG ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP LANGUAGE CHARACTERISTICS OF STORYTELLERS IN THIEP NGUYEN HUY'S SHORT STORIES ĐỒNG NGUYỄN MINH HẰNG Ths; Trường Đại học Hải Phòng Abstract Storytellers play an important role in conveying the content of stories. By using very simple words, Nguyen Huy Thiep has an engaging writing style. The storytellers of his stories use the language of polyphony to always have a dialogue with the readers. This makes him a novelist of very special literary style. Key words language of storytellers; Nguyễn Huy Thiệp. 1. Mở đầu Nguyễn Huy Thiệp được xem là một hiện tượng đặc biệt trên văn đàn Việt Nam thời kì đổi mới. Ông thành công hơn cả là ở các sáng tác truyện ngắn. Những yếu tố mới trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất phong phú, đa dạng, thể hiện một nội lực lớn lao về tư duy và nghệ thuật trong những tìm tòi, thể nghiệm, đặc biệt là ở nghệ ... 6 trang Chia sẻ honghanh66 Lượt xem 1056 Lượt tải 0 Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm ngôn ngữ người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênSố 8 238-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 103 NGÔN NGỮ VỚI VĂN CHƯƠNG ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP LANGUAGE CHARACTERISTICS OF STORYTELLERS IN THIEP NGUYEN HUY'S SHORT STORIES ĐỒNG NGUYỄN MINH HẰNG Ths; Trường Đại học Hải Phòng Abstract Storytellers play an important role in conveying the content of stories. By using very simple words, Nguyen Huy Thiep has an engaging writing style. The storytellers of his stories use the language of polyphony to always have a dialogue with the readers. This makes him a novelist of very special literary style. Key words language of storytellers; Nguyễn Huy Thiệp. 1. Mở đầu Nguyễn Huy Thiệp được xem là một hiện tượng đặc biệt trên văn đàn Việt Nam thời kì đổi mới. Ông thành công hơn cả là ở các sáng tác truyện ngắn. Những yếu tố mới trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất phong phú, đa dạng, thể hiện một nội lực lớn lao về tư duy và nghệ thuật trong những tìm tòi, thể nghiệm, đặc biệt là ở nghệ thuật kể chuyện. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu những đặc điểm của ngôn ngữ đối thoại trong lời người trần thuật tường minh của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Người trần thuật là một hình tượng nghệ thuật đặc biệt mang tính hư cấu, với vai trò "thay mặt" tác giả để kể lại câu chuyện, kể lại những diễn biến xoay quanh các nhân vật của câu chuyện, phát biểu những quan điểm của tác giả về con người, cuộc sống; dẫn dắt, định hướng người đọc; tổ chức tác phẩm. 2. Đặc điểm ngôn ngữ người trần thuật tường minh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Người trần thuật và điểm nhìn trần thuật Người trần thuật còn được gọi bằng một số thuật ngữ khác là người kể chuyện, chủ thể trần thuật, chủ thể kể chuyện. Người trần thuật giữ vai trò trung tâm trong việc biểu đạt nội dung truyện. Có 3 ngôi trần thuật ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba. Khi người trần thuật xưng “tôi”, tức là xuất hiện ở ngôi thứ nhất và được gọi là người trần thuật tường minh. Ở đây, người trần thuật vừa đóng vai trò là người dẫn chuyện vừa dựa trên điểm nhìn của nhân vật để kể chuyện một cách khách quan. Điểm nhìn trần thuật là yếu tố quan trọng trong nghệ thuật trần thuật. Dựa vào điểm nhìn, chúng ta có thể xác định được quan điểm của tác giả trong phần lớn trường hợp, việc tác giả đặt mình vào trong hay đứng ra ngoài câu chuyện để xem xét, miêu tả, bình luận. Điểm nhìn cũng chính là cơ sở để phân biệt người trần thuật với tác giả. Người trần thuật luôn gắn với một điểm nhìn nhất định. Có ba kiểu điểm nhìn điểm nhìn từ đằng sau, điểm nhìn từ bên trong và điểm nhìn từ bên ngoài câu chuyện. Khảo sát trong 43 truyện ngắn được in trong hai tập Tướng về hưu và Không có vua của Nguyễn Huy Thiệp, do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2011, chúng tôi nhận thấy, có 24 truyện được dẫn dắt bởi người trần thuật tường minh. Trong NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 8 238-2015104 số đó, có 12 truyện người trần thuật xuất hiện với tư cách tác giả và 11 truyện xuất hiện với tư cách một nhân vật trong truyện ngắn. Riêng trong Tội ác và trừng phạt, “tôi”, người trần thuật đồng thời kể lại nhiều câu chuyện theo quan điểm của bản thân để nêu lên những vấn đề có tính chất luận đề về tội ác và trừng phạt. Dù với dáng vẻ, vai trò nào thì cái “tôi” ấy luôn là cái “tôi” mang tính đối thoại. Lời người kể chuyện, “là những chỉ dẫn về hoàn cảnh’’ bao gồm phần lời giới thiệu, miêu tả, trần thuật sự việc, con người; bao gồm cả phần lời dẫn thoại, trữ tình ngoại đề. Người trần thuật luôn hướng tới một sự giao tiếp hai chiều Trong các truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp thường trăn trở về mấy đề tài đời sống, nhiệm vụ, vai trò của người viết văn và lịch sử. Trong đó, những truyện ngắn gây nhiều “sóng gió”, được đông đảo giới phê bình văn học và bạn đọc nói chung quan tâm nhiều nhất là đề tài lịch sử. Truyện ngắn viết về đề tài này không nhiều, chủ yếu được kể lại bởi người trần thuật tường minh Mưa Nhã Nam, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Trương Chi, chỉ có truyện ngắn Chút thoáng Xuân Hương được kể bởi người trần thuật hàm ẩn. Khai thác đề tài này, người trần thuật của Nguyễn Huy Thiệp thường dẫn dắt bạn đọc đến với những câu chuyện “khác” với những chuyện đã được biết đến về một nhân vật lịch sử nào đó Như Quang Trung, Chúa Nguyễn hay Hoàng Hoa Thám, Trương Chi. Cái khác ở đây tạo nên sự khác biệt gần như đối lập về điểm nhìn của người trần thuật đối với những nhân vật này điểm nhìn được hiểu theo nghĩa quan điểm, cách thức nhìn nhận chứ chưa đề cập đến cách thức xác lập vị trí trong lời kể. Bằng cách kể những câu chuyện mới về những con người “cũ” ấy, bằng cách đề cập đến phần con người - phần nhân tính mà nhiều khi không lấy gì làm cao cả của họ, người trần thuật của Nguyễn Huy Thiệp đã lên tiếng đối thoại, chất vấn lại lịch sử - vốn chỉ ghi nhận những nhân vật này ở sự cao cả. Người trần thuật tường minh của Nguyễn Huy Thiệp không bao giờ để người đọc thụ động trong quá trình đối thoại. Tác giả không đưa cho người đọc một chân lí sẵn có mà buộc người đọc phải suy nghĩ, tìm tòi, phải tự mò mẫm trong thế giới những thông tin không được xác thực. Người trần thuật thường đóng vai trò tác giả, có thể xuất hiện ở đầu truyện hoặc cuối truyện, hay ở cả phần đầu và phần cuối truyện, câu chuyện chính được kể bởi người trần thuật hàm ẩn. Với sự xuất hiện trực tiếp, người trần thuật tường minh của Nguyễn Huy Thiệp thường đưa ra những ý kiến hay những chứng cứ phủ nhận đi tính xác thực trong câu chuyện vừa được kể lại. Người trần thuật còn gây khó khăn cho người đọc trong quá trình giải mã nội dung truyện khi kể những chi tiết mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, ở truyện ngắn Cún, tác giả kể một câu chuyện về cha của nhà nghiên cứu văn học X - được giới thiệu ngay từ đầu truyện là người am hiểu về phê bình văn học, điều này tạo nên niềm tin ban đầu cho người đọc về tính xác thực của câu chuyện. Thế nhưng, đến cuối truyện, tác giả lại phủ nhận hoàn toàn tính xác thực ấy bằng việc “tiết lộ” với người đọc về phản ứng của nhà văn X “Cậu viết những điều bịa đặt! Cậu cần tôn trọng hiện thực. Hiện thực khác lắm! Cậu biết cha tôi như thế nào không? ... Cha tôi là Cún nhưng không phải thế! ”. Hay, trong Kiếm sắc, Đặng Phú Lân theo Gia Long “chín năm không làm hỏng việc gì”, nhưng đã bị chém đầu khi nhà Nguyễn giành được giang sơn. Nhà văn lại khiến người đọc bối rối khi “kể” thêm rằng, có lần lên Đà Bắc, đã gặp gia đình ông Quách Ngọc Minh, có tổ phụ là ông Đặng Phú Lân, có vợ là Ngô Thị Vinh Hoa. Việc kể thêm này khiến người đọc hoang mang về cái chết của Đặng Phú Lân, có thực ông ta đã bị Nguyễn Ánh chém đầu hay không? Cái chết của Ngô Thị Vinh Hoa trong Phẩm tiết là thực hay giả? Số 8 238-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 105 Ngôn ngữ đối thoại thể hiện qua các biểu thức ngôn ngữ gọi tên các nhân vật giao tiếp Thông qua việc sử dụng các biểu thức ngôn ngữ gọi tên các nhân vật tham gia vào “đối thoại”, người kể truyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã đưa các đối tượng giao tiếp tiềm năng trở nên tường minh ngay trong diễn ngôn truyện kể. + Tường minh hóa người nói trong khung giao tiếp bằng biểu thức tường minh “tôi” thường xuất hiện từ phần mở đầu truyện ngắn Vàng lửa, Phẩm tiết, Mưa Nhã Nam, Cún, Tội ác và trừng phạt, Chú Hoạt tôi, chỉ trong một số ít truyện, xuất hiện ở phần cuối Trương Chi, Kiếm sắc. Ở Vàng lửa biểu thức chỉ xuất người trần thuật tường minh “tôi” xuất hiện ở ngay đầu truyện ngắn “Ông Quách Ngọc Minh, ngụ ở Tu Lý, huyện Đà Bắc viết thư cho tôi Tôi đã đọc truyện ngắn Kiếm sắc của ông kể về tổ phụ tôi là Đặng Phú Lân. Riêng chi tiết gặp Nguyễn Du tôi không thích. Nhân vật người trẻ tuổi trong quán trong trẻo lạ lùng, tâm hồn sạch như nước ở núi ra không ra gì. Bài hát Tài mệnh tương đố cố ý gán cho Nguyễn Du là không khéo léo vậy. Ông gắng thu xếp lên chơi, tôi sẽ cho ông xem vài tư liệu, biết đâu giúp ông có cách nhìn khác. Con gái tôi là Quách Thị Trình sẽ mời ông món canh nấu khế ông thích Nhận được thư tôi đã lên thăm gia đình ông Quách Ngọc Minh.”. Người trần thuật tường minh “tôi” cũng có thể xác định được ở ngay phần mở đầu truyện ngắn Phẩm tiết “Ông Quách Ngọc Minh bạn đọc đã làm quen với ông qua hai truyện ngắn Kiếm sắc và Vàng lửa của tôi ngờ rằng ngôi mộ này là của bà Ngô Thị Vinh Hoa sống cách đây gần hai trăm năm. Truyền thuyết người Mường vùng này kể rằng bà đã lập ra dòng họ Quách Câu chuyện này kể về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ ấy”. Ngược lại, trong Kiếm sắc, người trần thuật với tư cách tác giả thông qua việc dùng biểu thức tường minh “tôi" xuất hiện ở cuối truyện thực hiện vai trò trực tiếp đối thoại với bạn đọc “Tôi, người viết truyện này gần đây lên Đà Bắc, đến Tu Lý ở trong nhà một người Mường. Chủ nhà tên là Quách Ngọc Minh có cho xem bài vị thờ tổ tiên. Tôi hết sức ngạc nhiên khi ông Quách Ngọc Minh cho biết tổ tiên ông là người Kinh . Tôi còn được con gái ông Quách Ngọc Minh tên là Quách Thị Trinh hát cho nghe một bài hát xưa, có lẽ rất thanh tao về những chồi cây xanh. Viết truyện ngắn này, tôi muốn để tặng gia đình ông Quách Ngọc Minh để cám ơn thịnh tình của gia đình ông với riêng tôi. Tôi cũng xin cảm ơn một số nhà nghiên cứu lịch sử và bạn bè quen biết đã giúp tôi sưu tầm và chỉnh lí những tư liệu cần thiết cho công việc viết văn, vốn rất nhọc nhằn, phức tạp, lại buồn tẻ nữa của tôi”. + Tường minh hóa sự có mặt của người nghe thông qua việc sử dụng các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai. Tác giả tự xưng “tôi” và đưa đối tượng giao tiếp tiềm năng vào khung giao tiếp bằng các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai “bạn”, “bạn đọc”, “chị”, “chị bạn”, “cậu”, “cô” “Tôi sẽ kể chuyện này cho chị, vì chị, chị bạn ạ, bởi đến bốn mươi tuổi chị đã thành bà lão. Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu im đi, cậu còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc. Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, rồi cô sẽ đi lấy chồng. Lúc ấy chỉ toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể chuyện cho cô nghe cả. Ở Nhã Nam, tháng Tư có mưa. Chuyện thế này Một câu chuyện nhỏ về Hoàng Hoa Thám” Mưa Nhã Nam; “Tôi đã ghi lại nguyên văn lời kể của người chủ quán. Trong bản ghi chép, tôi có sửa tên vài ba nhân vật và có thêm bớt ít dấu chấm phẩy để cho dễ đọc. Nhân dịp ngày Xuân, vậy xin hiến tặng bạn đọc thân mến gọi là món quà mừng năm mới” Chú Hoạt tôi. Người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 8 238-2015106 thường hướng về người đọc như họ đang hiện hữu bằng xương bằng thịt trước mặt mình, trực tiếp lên tiếng đối thoại với người đọc Việc sử dụng các đại từ xưng hô trực tiếp trong giao tiếp vào diễn ngôn truyện kể là một hiện tượng phổ biến ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Hành động ngôn ngữ của người trần thuật mang tính đối thoại Giao tiếp văn học là một hoạt động giao tiếp đặc biệt, ở đó chỉ diễn ra quá trình phát của nhà văn mà không ghi nhận những phản ứng của người đọc vào trong diễn ngôn văn học, vì thế hành động ngôn ngữ đặc trưng, phổ biến của người trần thuật là hành động kể - trần thuật hành động này được người trần thuật thực hiện nhằm thuật lại, tái hiện sự việc. Văn bản trần thuật có thể được coi như là một câu trần thuật được mở rộng nhằm kể lại các sự kiện cho người tiếp nhận trần thuật biết, đồng cảm và đánh giá cùng mình. Ngoài ra, còn có thể tìm thấy trong lời người trần thuật các kiểu hành động ngôn ngữ khác, với tần số xuất hiện ít hơn như hành động miêu tả hành động giúp người đọc hình dung được các sự việc, chi tiết, nhân vật, thời gian, không gian của câu chuyện, hành động biểu cảm hành động bày tỏ trạng thái tâm lí của người kể chuyện, làm cho câu chuyện giàu cảm xúc, hành động bình luận, đánh giá giúp người đọc thấy rõ thái độ, cách nhìn nhận, đánh giá của người trần thuật với các sự việc, nhân vật trong câu chuyện. Các kiểu hành động ngôn ngữ của người trần thuật trong truyện kể có mối quan hệ chặt chẽ, trong đó, kể trần thuật là hành động chủ đạo, các hành động khác miêu tả, biểu cảm, bình luận, đánh giá có vai trò hỗ trợ, phối hợp để tạo điểm nhấn trong diễn ngôn truyện kể. + Hành động kể là hành động đặc thù, cơ bản, chiếm số lượng nhiều nhất trong lời người trần thuật tường minh của Nguyễn Huy Thiệp. Có thể nói, trong diễn ngôn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp gần như chỉ có hành động kể - trần thuật, những kiểu hành động ngôn từ khác như hành động miêu tả, hành động bình luận, đánh giá, hành động biểu cảm, xuất hiện rất ít. Vì thế, diễn ngôn chủ yếu được xây dựng từ lời kể của người kể chuyện. Chẳng hạn, đoạn trích sau đây trong truyện ngắn Cún “Lão Hạ sợ quá, bủn rủn hết cả chân tay. Tiếng khóc ngằn ngặt đúng là có thật. Lão dỏng tai nghe. Đúng là tiếng khóc trẻ con. Lão Hạ cuống cuồng chạy xuống vệ sông. Lão vừa chạy vừa ngã. Tiếng khóc níu lão lại. Lão nhìn bên đường và nhận ra đứa bé nằm ở trong cống. Lão Hạ dần dần hoàn hồn. Hóa ra chẳng có ma quỷ nào cả! Hú hồn hú vía! Ma quỷ đã bỏ mất một cơ hội để rình chộp lão! Lão Hạ bò về phía cống, thò tay kéo đứa bé ra. Chân tay đứa bé lạnh buốt. Lão Hạ ôm đứa bé về lều chợ. Lão đặt tên nó là Cún”. Đoạn văn chỉ chứa những câu thực hiện hành động kể, những câu được đánh dấu bằng dấu chấm cảm như “Hóa ra chẳng có ma quỷ nào cả! Hú hồn hú vía! Ma quỷ đã bỏ mất một cơ hội để rình chộp lão!” cũng không có chức năng biểu cảm mà vẫn mang chức năng kể - tường thuật lại trạng thái tinh thần của lão Hạ cho độc giả. Lời tả - hành động tả tả cảnh, tả nhân vật của người trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp “dù là miêu tả thì vẫn thiên về kể” [5, và nếu tả thì thường chỉ là vài ba nét chấm phá, theo kiểu nắm bắt thần thái hoặc thoáng qua, hết sức chung chung, không cụ thể nhưng đôi khi rất sắc cạnh. Người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không hé lộ cho người đọc phán đoán được thái độ của tác giả đối với nhân vật cũng như không hề hé mở điều gì về nội tâm nhân vật. Người trần thuật không thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật nên cũng ít những mô tả trạng thái nội tâm, vì thế mà hành động miêu tả nội tâm nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thực hiện chức năng thuật lại sự Số 8 238-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 107 kiện, diễn biến là chính, tức là “thiên về hành động kể nhiều hơn” [5, tr. 98]. Hành động bình luận trực tiếp của người trần thuật trong truyện Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện với số lượng không lớn, hầu hết được thực hiện bằng những phát ngôn rất ngắn. Đó là những lời bình luận về tuổi trẻ, về tình yêu “Tuổi mười sáu là tuổi của mùa xuân, của tình yêu. Tình yêu có thể có nhiều nhưng mùa xuân thiếu nữ lại chỉ có một”; về dư luận “Tin đồn bao giờ cũng thế, qua miệng của người ngu dốt thì quái lạ thay, thường thú vị hơn qua những con người từng trải.” Trái tim của hổ - Những ngọn gió Hua Tát; hoặc là những bình luận về tình dục “Chuyện tình ái, giống đực thường khôn ngoan và vô trách nhiệm, giống cái thì nhẹ dạ và tận tụy quá” Nàng Bua; hay “Chuyện của trẻ con thì người lớn không nên cắt nghĩa vì logic của trẻ con là logic huyền thoại không tiền khoáng hậu. Người lớn bị thực tế khắc nghiệt làm mất đi sự mong manh của logic huyền thoại, thay vào là thứ logic xám xịt, rạch ròi.”; “Nó là đứa nhạy cảm, nhạy cảm quá mức, điều ấy thật không tốt.” Tâm hồn mẹ; “Nhưng gì thì gì, bởi thức ăn ngon, tất cả những lời chối tai đều nuốt trôi được Huyền thoại phố phường”; “Không thể nói Nguyễn Trãi đã sống thanh thản dưới triều vua Lê Thánh Tôn. Vị vua trẻ nắm quyền lực, lại ít kinh nghiệm sống, chỉ thích sự chiều nịnh hơn là nói thẳng, những cột trụ nhà nước như bọn Lê Ngân, Lê Sát, Lê Văn Linh, Lê Hy đều là những chính khách xuất thân giang hồ, trị nước bằng mưu mẹo chứ không xuất phát từ đạo và luật.” Nguyễn Thị Lộ; về học vấn với phụ nữ “Với phụ nữ, học vấn giữ vai trò thứ yếu tạo nên sức mạnh thần thánh của họ, điều này không phải chứng minh” Không có vua; “Triều Nguyễn của vua Gia Long lập ra là một triều đại tệ hại. Chỉ xin lưu ý bạn đọc đây là triều đại để lại nhiều lăng Vàng lửa Nhìn chung, kiểu bình luận của người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn luôn có xu hướng hạn chế sự định giá của mình mặc dù người trần thuật có rất nhiều thực quyền trong vấn đề này. Xu hướng chủ yếu là bình luận ngắn và trong bình luận thường chỉ kết luận riêng phần mình và dành riêng chỗ trống cho người đọc. Với việc hạn chế tối đa những hành vi miêu tả, hành vi bình luận hay biểu cảm để tạo cho người đọc những định hướng ban đầu trong quá trình giải mã tác phẩm, người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã bắt buộc người đọc phải cùng “động não” để lí giải những vấn đề được đặt ra trong diễn ngôn, cả những vấn đề mà bản thân người trần thuật cũng chưa có được câu trả lời hợp lí; tức là đã có sự dịch chuyển từ độc thoại sang đối thoại với độc giả. Trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, người trần thuật luôn chỉ là người khơi gợi để người đọc tham gia vào quá trình đối thoại thực sự, không áp đặt ý kiến chủ quan của mình lên người đọc “Tôi - người viết truyện ngắn này - căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy. Quả thực, cái kết thúc ấy là tuyệt diệu và cảm động, trí tuệ dân gian đã nhọc lòng làm hết sức mình. Còn tôi, tôi có cách kết thúc khác. Đấy là bí mật của riêng tôi. Tôi biết giây phút rốt đời Trương Chi cũng sẽ văng tục. Nhưng đấy không phải là lỗi ở chàng. Mỵ Nương sống suốt đời sung sướng và hạnh phúc. Điều ấy vừa tàn nhẫn, vừa phi lí. Lẽ đời là thế” Trương Chi. Bằng cách này, người trần thuật đã bộc lộ rõ thái độ của mình, “căm ghét sâu sắc” cái kết thúc truyền thống của câu chuyện dân gian này, cái kết thúc mà các tác giả dân gian đã ru ngủ người đọc bằng những “ảo tưởng cổ tích” ngọt ngào. Anh ta tuyên bố rằng, mình có một cách kết thúc truyện khác có lẽ là hợp lí hơn ? nhưng không hề áp đặt mà chỉ là cơ sở để người đọc xem xét, đánh giá về nhân vật và truyện ngắn mà thôi. Trong Thổ cẩm, kết thúc câu chuyện, người trần thuật nói với bạn đọc “Câu chuyện trên đây do NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 8 238-2015108 một quan chức ở Bộ Y tế mà tôi muốn giấu tên kể lại cho nghe. Tôi không tán thành với nhiều ý kiến nhận xét của ông, nhưng tôi đồng ý với ông rằng cuộc đời quả là tươi đẹp, tuổi trẻ quả là tươi đẹp. Đương nhiên, kể cả với cách sinh con kiểu ấy.” - Người trần thuật bày tỏ đánh giá của mình nhưng anh ta cũng không khẳng định ý kiến của mình là hoàn toàn đúng và không hề thuyết phục bạn đọc đồng tình với ý kiến đó. + Tuy ít thực hiện những hành động như miêu tả, bình luận, biểu cảm nhưng đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, có thể thấy người trần thuật lại thực hiện nhiều hơn những hành động trực tiếp hướng tới người đọc. Có khi, phát ngôn của người trần thuật thực hiện hành động cầu khiến “xin người đọc vì nể nang những xúc cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi”, hay có khi anh ta tuyên bố với người đọc “Tình cảm này, tôi xin nói trước là sự bênh vực của tôi đối với cha mình” Tướng về hưu. Việc người trần thuật đối thoại trực tiếp với bạn đọc còn được đánh dấu trong diễn ngôn bằng sự xuất hiện của những câu hỏi hướng tới người đọc “Trên đất nước mình, đâu đâu chẳng là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người? Hãy làm cho mảnh đất này ngày càng phì phiêu, tươi đẹp. Tôi nghĩ thế, chân thành nghĩ thế. Vậy còn bạn, bạn nghĩ thế không?” Quan âm chỉ lộ Hay hành động cảm tạ “Trên đây là những sự việc lộn xộn trong hơn một năm mà tôi ghi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi. Tôi xin cảm tạ”. Người trần thuật nhiều khi lên tiếng thực hiện hành vi thách thức độc giả “Tôi không chắc ông Hoàng Hoa Thám, tức Đề Thám, tức Hùm xám Yên Thế trong lịch sử có giống ông Đề Thám mà tôi kể không? Còn ông Đề Thám như tôi biết tôi biết rõ ông ta ông ta là một anh hùng, cũng là một người nhu nhược” Mưa Nhã Nam, hoặc “Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình” Tướng về hưu Cách nói này đã tác động trực tiếp đến người đọc như những lời khiêu khích, đặt người đọc vào tình thế “bị thách đấu”, buộc phải tham gia vào quá trình đối thoại và buộc phải có ý kiến riêng của mình. 4. Kết luận Ngôn ngữ trần thuật đầy tính đối thoại đã làm nên phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả kể chuyện bằng ngôn ngữ đa giọng điệu. Bằng cách đặt mình vào trong các sự kiện, tác giả kể những câu chuyện lịch sử bằng giọng chất vấn, phản biện. Ở dạng truyện ngắn về chân dung nhân vật, tác giả thường kể chuyện bằng ngôn ngữ phóng đại, khoa trương và huyền bí. Còn với đề tài hiện thực xã hội, người đọc lại được dẫn dắt bằng lối hành văn dửng dưng, lạnh lùng mà giễu nhại, châm biếm sâu cay. Nguyễn Huy Thiệp có lối diễn đạt rất giản dị, đời thường, sử dụng các câu ngắn, sáng rõ chứ không gọt đẽo câu chữ cầu kì. Sự kì thú, hấp dẫn trong các câu chuyện ông kể không thể hiện ở câu, từ mà ở sự dẫn chuyện khéo léo, tài tình của ông. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Đình Dân 2013, Vấn đề đối thoại trong “Những kẻ thiện tâm của Joanathan littell, Tạp chí khoa học, trường Đại học An Giang, số 1. 2. Đỗ Hữu Châu 2010, Đại cương ngôn ngữ học tập hai, Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, H. 3. Đỗ Việt Hùng - Nguyễn Thị Ngân Hoa 2003, Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học Sư phạm, H. 4. Nguyễn Thị Ngân Hoa 2013, Những yếu tố tuyến tính hóa đặc trưng nhân vật người kể, điểm nhìn, giọng điệu của diễn ngôn truyện kể qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 207+208. 5. Nguyễn Thị Thu Thủy 2003, Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, ĐH Sư phạm Hà Nội. Các file đính kèm theo tài liệu này Bài viết phân tích các sự kiện tiểu sử nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và, bằng cách đó, nhìn lại những cách ứng xử với cuộc đời và văn chương của ông mà nhìn kĩ, nó như là sự kết hợp giữa tinh thần “trẻ Nho già Trang” của các văn sĩ trung đại với tinh thần phản biện, phê phán của thế hệ nhà văn Đổi mới. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Sinh ở nông thôn Sinh năm 1950 tại Thái Nguyên nhưng tuổi thơ Nguyễn Huy Thiệp còn gắn liền với nhiều làng quê khác nhau ở miền Bắc, trong thời điểm cuộc chiến chống Pháp chưa kết thúc. “Tôi sinh ra chỉ vài ngày – Nguyễn Huy Thiệp kể trên báo Le Monde, là mẹ tôi phải bỏ tôi vào một cái gùi, và địu trên lưng bà, để trốn chạy bom đạn của người Pháp”1. Nhưng kí ức cuộc chiến hoàn toàn mờ nhạt so với kí ức nông lị Vĩnh Phúc, đặc biệt là vùng Kim Anh nằm cạnh sông Cà Lồ để lại dấu ấn sâu đậm trong những tiếp xúc đầu đời của Nguyễn Huy Thiệp với thế giới bên ngoài. Bến Cốc, tên bến sông nơi gia đình ông tạm trú, chỉ chưa đến 30 nóc nhà nhưng lại có nhiều người theo đạo Thiên chúa. Cậu bé Thiệp ở với mẹ và ông bà ngoại, không có nhiều bạn bè cùng lứa, cảm giác “cô đơn”, thứ cảm giác đã được diễn tả rất tinh tế trong Tâm hồn mẹ 1982, lúc đó cứ trải theo những bờ tường đá ong, những cánh đồng đầy dế. “Nỗi cô đơn ở trẻ nhỏ là chỗ đất tốt cho những tâm hồn mơ mộng”2. Ông ngoại là người mở mắt mở lòng cho nhà văn tương lai bằng những bài thơ Đường, phong dao tục ngữ và những nét Hán tự không quá bài bản. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp còn được học với cha xứ, vị này mỗi tháng một lần về nhà thờ ở bến Cốc, “chiều xuống, tiếng chuông nhà thờ ở giữa bến Cốc lan trên mặt sông mang mang vô tận” Chảy đi sông ơi3. Giữa thập niên 1950 ấy, ta biết rằng, chính phủ kháng chiến, đã tiến hành cải cách ruộng đất và gây ra không ít bất ổn, xáo trộn ở nông thôn. Tuy vậy, đúng như Greg Lockhart nhận định “cảm quan Thiên chúa giáo ở một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp, như Chảy đi sông ơi, Giọt máu, Con gái thủy thần lại nổi bật”4. Dường như những vùng thôn quê biến động không làm ảnh hưởng đến cậu bé Thiệp thường đến nhà thờ, tìm đọc Kinh Thánh cho đến trước khi lên mười. Dĩ nhiên, ảnh hưởng Ki-tô giáo như một nguồn tư tưởng phương Tây thì phải thấm hơn về sau, còn lúc đó, trong cái viết đầu tay, Nguyễn Huy Thiệp lại làm thơ. Thơ phú, trong con mắt gia đình ông, đồng nghĩa với làm loạn và sẽ được ông nhắc lại nhiều lần như một ám ảnh “danh hiệu nhà thơ là thứ danh hiệu lỡm người bạc phúc. Thơ chỉ là thứ du dương bất lực” Giọt máu. Ông ngoại, hẳn vì kinh nghiệm không mấy ngọt ngào của một nhà nho thất thế, đã hết sức ngăn cấm đứa cháu đang theo đuổi làm thơ – “thứ tài năng tầm thường nhất” Mưa. Nguyễn Huy Thiệp nghe theo, liền viết những mẩu truyện nhỏ, học theo lối ngữ pháp đơn giản, với những câu văn ngắn như cách nói thường ngày. Đấy hẳn là mầm mống để lối hành văn theo phong cách tối giản minimalism trở thành điểm độc đáo trong nghệ thuật văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp. Trải nghiệm nông thôn làng xã Bắc bộ, đương nhiên không phải của riêng Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng như sẽ thấy, ông không tái hiện nông thôn trong mối liên quan với các sự kiện mang tính chính trị – xã hội, như về phong trào hợp tác xã, về cải cách ruộng đất vốn vẫn được các nhà văn Đổi mới nhắc lại. Những mô tả nông thôn, nông dân của Nguyễn Huy Thiệp gần gũi với các mô tả dân tộc chí, với mối bận tâm về các tính chất, đặc trưng truyền thống của làng xã. Trên thực tế, mặc dù nông thôn Bắc bộ đã biến đổi rất nhiều kể từ sau 1945, nhưng Nguyễn Huy Thiệp sẽ vẫn kể về nó như là không gian lưu giữ các sinh hoạt và thiết chế đã từng vững chắc, từ gia đình, quan hệ họ hàng, thân tộc,… đến các tập tục, tín ngưỡng và tâm linh cộng đồng. Các tác động của bối cảnh Đổi mới đến làng quê, đặc biệt là sự có mặt của kinh tế thị trường dẫn đến sự gia tăng thiếu kiểm soát của các nghi thức cưới xin, ma chay, cỗ bàn…, cũng sẽ được ông đề cập với giọng điệu vừa ưu tư vừa đùa giễu. Từ cuối thập niên 1980, Nguyễn Huy Thiệp dành mối bận tâm lớn về nông thôn và tuy ít nhận được những phản ứng từ độc giả so với loạt truyện giả lịch sử, nhưng nó thực sự quan trọng trong mảng văn xuôi viết về nông thôn đương thời. Con gái thủy thần vào các năm 1988, 1989, 1998, Những bài học nông thôn 1988, Thương nhớ đồng quê 1992, Chăn trâu cắt cỏ 1996, Chú Hoạt tôi 2001, Cánh buồm nâu thuở ấy 2004…, lần lượt làm rõ hơn quan điểm của Nguyễn Huy Thiệp “mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở nông thôn.” Vượt xa vị trí đề từ cho một truyện ngắn, quan điểm này gợi nhắc sự cần thiết phải nhìn lại gốc gác, căn cước mỗi cá nhân, trong đó có người dân châu thổ Bắc bộ. Nếu coi vùng địa lí này là cái nôi của văn minh Việt Nam, nếu thừa nhận “tính độc đáo của châu thổ Bắc kỳ trên bán đảo Đông Dương là rất rõ”5 với tất cả các biểu hiện đặc thù về môi trường vật chất lẫn các phương tiện sống, thì việc trở lại dò thấu nó, sau nhiều gián cách và hời hợt nhất định, là một nhu cầu tất yếu. Khi đó, nhà văn hoàn toàn có cơ hội để nhận thức lại “con người làng xã”, nhân vật trung tâm chưa bao giờ cạn nghĩa, bởi đây là “con người phổ quát của xã hội Việt, là cái phần phổ quát trong mỗi người Việt”6. Cần thấy rằng, cuối thập niên 1980 cũng là giai đoạn hồi sinh mạnh mẽ của những nghiên cứu dân tộc học, nhân học làng xã Bắc bộ. Sẽ có nhiều hữu ích và lí thú nếu đọc những truyện kể nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp, không những từ đối sánh với các tác phẩm cùng đề tài, mà còn từ vốn nhân học làng xã Bắc bộ bởi mức độ tương đồng về tính “hiện thực” giữa chúng hoàn toàn có thể được đối chứng trên văn bản. Đương nhiên, ta không hề quên rằng Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn và quyền hư cấu, bịa đặt trên trang viết ở ông rất lớn. Tuy vậy, ngay cả khi có độ vênh trong cách đọc này thì dấu ấn của cái nhìn dân tộc chí Nguyễn Huy Thiệp trong quan sát, tái hiện đời sống làng quê vẫn là một sự tiếp nối lối viết, từ Ngô Tất Tố với Việc làng 1940, Trọng Lang với Làm dân 1940 và Thi vị đồng ruộng 1944, đến Sơn Nam với Hương rừng Cà Mau 1962, Bình Nguyên Lộc với Cuống rún chưa lìa 1969… Tiếp nhận văn học cổ điển Năm 1960, Nguyễn Huy Thiệp quay về Hà Nội, vào lúc cuộc chiến tranh chống Mỹ hiện hình rõ rệt ở miền Bắc. Mười năm tiếp theo, đặc biệt là quãng thời gian vào học Đại học Sư phạm, Nguyễn Huy Thiệp có dịp tiến sâu hơn vào tri thức sách vở, khi ông lần lượt tìm đọc các trước tác của các triết gia Trung Hoa cổ đại, Sử kí Tư Mã Thiên, và, như hầu hết các sinh viên miền Bắc lúc đó, ông đọc các tiểu thuyết Nga thế kỉ XIX được dịch sang tiếng Việt. Sự định hình không gian hiểu biết của Nguyễn Huy Thiệp, ngay từ đầu, đã bị đặt trong những đường biên văn cảnh mà bản thân ông không ý thức rằng đó là giới hạn. Nhìn vào những gì ông trích dẫn, đưa vào tác phẩm cụ thể cũng như các tiểu luận được đăng từ cuối 1980 thì diện tham bác chủ yếu là các tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam và các nhà văn-triết gia châu Âu thế kỉ XVIII, XIX. Nói chuyện với độc giả ở Paris, ông thành thực “Thế hệ của chúng tôi chỉ tiếp xúc nhiều với văn học cổ điển. Chứ văn học hiện đại rất hạn chế”7. Peter Zinoman đã coi thực tế này như một trở lực, ngăn Nguyễn Huy Thiệp đến với các xu hướng văn chương phương Tây tiền phong8. Tình thế bị hạn định đó dẫn ông đến lợi thế của một độc giả say mê kiểu tự sự truyền thống trong văn học cổ Việt Nam, Trung Hoa. Lối viết “lạnh băng” của sử kí Tư Mã Thiên hay tâm thế một người học lịch sử, rõ ràng, đã đẩy ông vào thói quen chi tiết hóa cả ngày tháng, địa danh và hành trạng nhân vật lịch sử trong các truyện giả lịch sử gây sóng gió của mình. Ông cũng không ngần ngại đuổi theo mô hình các truyện kể danh nhân nhân vật chí như đã rất rõ nét trong loạt truyện về Tú Xương Thương cho cả đời bạc, 1996, Nguyễn Bính Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, 1997, Đề Thám Mưa Nhã Nam, 1992… Trong khi, như Lại Nguyên Ân nhận định, “không gian văn học miền Bắc những năm 1950-70 có thể là điển hình cho không gian đơn ngữ, độc ngữ; toàn xã hội chỉ nói chỉ đọc tiếng Việt chữ Việt họa báo Liên Xô, sách ngữ lục Trung Quốc cũng đến đây dưới dạng chữ Việt và chỉ được biết mọi loại thông tin qua tiếng Việt chữ Việt”9 thì Nguyễn Huy Thiệp đã dựa vào chất nền văn học cổ điển nội địa để xoay chuyển những điểm bất lợi khi viết văn, nhất là vào thời điểm ông xuất hiện đã cận kề với giai đoạn tái hội nhập phương Tây, báo hiệu sự ưu thắng của những kĩ thuật viết mới lạ. Càng về sau, Nguyễn Huy Thiệp càng chứng tỏ mình ưa cải dạng các thể loại văn học cổ tiểu thuyết võ hiệp, chèo, truyện thơ nhằm gây chú ý ở những tìm tòi nghệ thuật tưởng là quen thuộc, thông thường nhất. Một số cách đọc Nguyễn Huy Thiệp từ lí thuyết hậu hiện đại đã không thật để tâm đến sự tái sinh các phương thức tự sự truyền thống trong tác phẩm của ông. Hướng vào các thủ pháp được cho là hậu hiện đại, theo Peter Zinoman, “có thể khó hiểu hơn là tác phẩm bộc lộ”10. Một thập niên “úp mặt vào núi” Một sự kiện bước ngoặt là thay vì vào chiến trường, Nguyễn Huy Thiệp tuân theo phong trào “thanh niên 3 sẵn sàng” để, trong gần mười năm 1970-1980, dạy học ở Sơn La. Một thập niên “úp mặt vào núi” đem đến cho ông hai trong số các cảm hứng chính yếu của mình dạy học hay rộng hơn, giáo dục, và núi rừng, thiên nhiên. Những hồi quang phong phú từ nơi rừng thiêng nước độc, “khỉ ho cò gáy” cách thủ đô vài trăm cây số quyết định gần như tuyệt đối xu hướng tự thuật trong nhiều trang văn giàu hồi ức của Nguyễn Huy Thiệp. “Nhưng hơn thế nữa – báo Le Monde nhận định, nhờ rừng ông khám phá ra sức mạnh của thiên nhiên, điều này ánh men lên trong tất cả tác phẩm của ông”11. Thứ sức mạnh tự nhiên mà chàng trai “20 tuổi, vừa mới tốt nghiệp ra trường, tâm hồn còn rất ngây thơ” Những người muôn năm cũ chứng kiến sẽ được cụ thể hóa bằng những nhận xét mang dáng dấp “thiên nhiên tâm luận” trải khắp đời cầm bút của nhà văn Từ 1986, với Muối của rừng; 1992 với Mưa Nhã Nam; 1994 với Hoa sen nở ngày 29 tháng 4; 2005 với Tuổi 20 yêu dấu… Có thể nói, Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát 1987, Những người thợ xẻ 1988, Truyện tình kể trong đêm mưa, Sống dễ lắm, Thổ cẩm đã góp phần làm thức dậy “đề tài rừng núi” dường như, theo Philippe Papin, vắng bóng trong văn hóa ở một xứ rừng bao phủ hơn phân nửa diện tích. “Với Việt Nam – Papin nhìn nhận, những vùng cao là một thực tại mới mẻ, một ý niệm của thế kỉ XX mà họ vẫn chưa thấu rõ hết nội dung. Phải biết rằng cho tới ngày nay, các cô giáo bị thuyên chuyển lên cao nguyên vẫn hoang mang dường nào đó là biệt xứ, là bứng gốc, là sự đột nhập tàn nhẫn của cái lạ thường”12. Sự đối đầu giữa núi rừng và thành thị, giữa thế giới tự nhiên và xã hội văn minh, nhìn chung, cũng sẽ trở thành trọng âm của nhà văn nhằm điều chỉnh những tiếng nói sai lệch, nhầm lẫn trong các diễn ngôn từng có về vùng cao, tộc người thiểu số và những gì vẫn được cho là hoang dã, lạc hậu. Không có mặt và ít bị tác động trực tiếp từ bom đạn chiến trường khiến Nguyễn Huy Thiệp đứng ngoài một trong những cuộc viết dai dẳng nhất – viết về cuộc chiến và người lính, của những nhà văn cùng thế hệ. Chẳng những rời xa đề tài từng đem lại vinh dự lẫn khổ tâm cho bao người này, Nguyễn Huy Thiệp còn dứt khoát kết thúc một mẫu hình nhân vật – người lính, mà văn học giai đoạn Đổi mới vẫn chưa hết say mê. Tướng về hưu 1987 là tác phẩm duy nhất nhắc đến người lính nhưng đó là một kiểu người lính hưu tàn, thất bại và chết bất đắc kì tử trong thời bình. Ẩn dụ về cuộc chiến có chăng chỉ hiện lên trong những mô tả thực tại xã hội nghèo đói, bệnh tật, mất an toàn sinh kế và suy thoái đạo đức. Chấn thương chiến tranh nếu trở nên trầm trọng với những nhà văn từng mặc áo lính, từng là bộ đội thì nó, day dứt không kém, ngấm sâu ở cái nhìn về chủ nghĩa anh hùng, về giá trị chiến thắng, vinh quang, về mô hình quyền bính lí tưởng của Nguyễn Huy Thiệp. Cần nhấn mạnh điểm riêng này để có thêm cơ sở cho sự hình dung về con đường đi tới kiểu nhà văn tự ý thức trong giai đoạn các điều kiện của xã hội dân sự bắt đầu ló dạng. Trở lại tự nhiên Sau mười năm “hãy đi xa hơn nữa” nơi núi rừng, Nguyễn Huy Thiệp quay lại Hà Nội, làm một “nhân viên quèn” ở nhiều cơ quan khác nhau, khi ở nhà xuất bản Giáo dục, khi tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ. Một cách thầm lặng, ông đọc Chernyshevsky Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực, Tseitlin Lao động nhà văn, G. Plekhanov Bàn về nghệ thuật và nghiên cứu tâm lí độc giả, đúng hơn là “nghiên cứu tâm lí dân tộc trong cả một khoảng thời gian dài”. Trên cơ sở đó, ông bắt đầu hướng tới “dọn ra món ăn tinh thần cho cả thời đại”13. Tháng năm năm 1986, Nguyễn Huy Thiệp cho đăng hai truyện ngắn đầu tiên trên báo Văn nghệ Nàng Sinh và Cô Mỵ. Đến tháng chín có thêm Vết trượt. Nhưng tất cả mọi sự chú ý, dư luận và là nguyên cớ của”hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” phải đến khi Tướng về hưu xuất hiện cũng trên Văn nghệ vào tháng sáu năm 1987 – thời điểm có “một chiều kích chính trị quan trọng” như G. Lockhart cảm nhận14. Từ đây đến 1992, năm Nguyễn Huy Thiệp tuyên bố “rửa tay gác kiếm”, không viết văn nữa, là giai đoạn “cập thời vũ” nhất nhưng cũng “tâm tuyệt, khí tuyệt…” nhất của ông. Mọi tán dương lẫn bài xích cũng theo đó mà phủ ập xuống. Tháng 3/1992, ông tự nguyện xin thôi việc ở cơ quan nhà nước, chuyển sang kinh doanh nhà hàng. Cao trào Đổi mới văn học cũng dần lắng lại. Nhưng tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu được chuyển ngữ và xuất hiện ở nhiều không gian đọc khác nhau, ở Pháp, Mỹ, Ý, Thụy Điển… Đáng nói hơn, đây cũng là lúc ông công bố những tiểu luận văn chương chứa đựng phần lớn kinh nghiệm, quan điểm sáng tạo của cá nhân mà mức độ nói thẳng, nói thật, nhìn ngược vấn đề trong đó đã gây nhiều phản ứng trái chiều. Trên Con đường văn học 1992, ông ngậm ngùi và kiêu hãnh nhận ra “xác chết của các nhà văn đã chất thành núi trên thế gian này. Người ta vẫn bới tìm ở đấy những mẩu vụn của con người, về con người”15. Ông quay về triết lí nhẹ nhàng với cảm quan Phật giáo trong Hoa sen nở ngày 29 tháng 4 1994, bao dung Thương cho cả đời bạc 1996, đề cao Bài học tiếng Việt 1999 và sau cùng, khi đã vỡ lẽ “lẽ thường, lẽ vô thường”, “sự mất mát, sự vô nghĩa, lẫn ý thức về thời gian biến dịch” Con gái thủy thần, 1998, ông khẳng định Sống dễ lắm và Cười lên đi 2000. Tiếng cười ý vị, quả thật, đã làm ông khỏe khoắn và tinh quái lần nữa trong những câu chuyện thoạt tiên tưởng chỉ để “mua vui”, Chuyện ông Móng 2001, Những tiếng lòng líu la líu lo, Chuyện bà Móng 2004… Cũng đã có lúc, ông Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn 2004 để rồi hứng chịu hàng loạt phản bác dữ dội. Có thể nói, sau cao trào Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp lựa chọn thái độ “trở lại tự nhiên”. Bởi theo ông, “một xã hội dân chủ, tự do cũng sẽ là một xã hội tôn trọng tự nhiên, gần gũi với tự nhiên, vừa đồng hóa, vừa dị hóa, tiêu hóa nữa”16. Thái độ đó chi phối cách viết và thể loại của ông. Nhưng hơn hết, tư tưởng Nam tông theo giáo lí đốn ngộ, lẽ biến dịch của Lão Trang và sự tinh giản của tích trò dân gian Việt mới thực sự phóng chiếu sâu đậm trong trang viết của ông giai đoạn này. Không mấy nhà văn cùng thế hệ có những biểu hiện như thế. Một lần nữa, ông vẫn riêng khác trong những cách ứng xử với cuộc đời và văn chương của ông mà nhìn kĩ, nó như là sự kết hợp giữa tinh thần “trẻ Nho già Trang” của các văn sĩ trung đại với tinh thần phản biện, phê phán của thế hệ nhà văn Đổi mới. ——— 1 [Báo] Le Monde 2005, “Nguyễn Huy Thiệp, những vết thương cháy bỏng”, Nguyễn Quốc Trụ dịch, Nguồn 2 Nguyễn Huy Thiệp 2010, Giăng lưới bắt chim, NXB Thanh Niên, H., 3 Lời kể trong truyện Chảy đi sông ơi. Những trích dẫn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ở bài viết này, nếu không có chú thích gì khác, lấy từ Nguyễn Huy Thiệp 2007, Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Với minh họa của các họa sĩ, NXB Văn hóa Sài Gòn & Đông A. 4 Greg Lockhart 1992, “Nguyen Huy Thiep and the Faces of Vietnamese Literature” in Nguyen Huy Thiep, The General Reties and Other Stories, Oxford University Press, 5 Pierre Gourou 2015, Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, Nhiều người dịch, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 6 Đỗ Lai Thúy 2005, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin, H., tr73-74. 7 Nguyễn Huy Thiệp 2002, “Ở Việt Nam tháp rùa vẫn như cũ”, trò chuyện văn chương với Jean Lacouture tại Paris Pháp, Kim Lefèvre chuyển ngữ. Bản điện tử do Thuận thực hiện. Nguồn 8 Peter Zinoman 1994,“Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”, PositionsEast Asia Cultures Critique 2 2 Fall, 9 Lại Nguyên Ân 2014, “Hình thành, định hình, trưởng thành, phân hóa Mấy nét về lớp nhà thơ xuất hiện ở miền Bắc những năm 1960-1970”, Nguồn 10 Peter Zinoman 1994,“Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”, Tlđd, p. 298. 11 [Báo] Le Monde 2005, “Nguyễn Huy Thiệp, những vết thương cháy bỏng”, Tlđd. 12 Philippe Papin 2011, Việt Nam hành trình một dân tộc, Nguyễn Khánh Long dịch, NXB Giấy vụn, TP Hồ Chí Minh, 13 Giăng lưới bắt chim, Sđd, 14 Greg Lockhart 1992, Tlđd, 15 Giăng lưới bắt chim, Sđd, 16 Giăng lưới bắt chim, Sđd, Có sự nghiệp văn chương đồ sộ, được xem là “của hiếm”, là “hiện tượng độc đáo” thậm chí đến mức gây tranh cãi với các thể loại sáng tác gồm truyện ngắn, kịch, tiểu luận, phê bình văn học, song nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thành công nhất là truyện ngắn… Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp 1950 – 2021 Ngày nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã rời cõi tạm sau thời gian dài chiến đấu với bệnh tật, để lại khoảng trống lớn cho văn đàn Việt Nam. Văn học đương đại Việt Nam hơn ba chục năm qua, không thể không nói tới nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với hàng loạt truyện ngắn đưa tên tuổi ông lên hàng các tác gia kiệt xuất của văn chương Việt Nam cuối thế kỷ XX. Trong đó, các truyện “Tướng về hưu”, “Không có vua”… được coi là dấu mốc mở đầu cho thời kỳ văn học đổi mới. Nguyễn Huy Thiệp – người tạo ra bước ngoặt trong văn chương Việt Nam sau 1975 Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày tại huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ, ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên… Vì thế, nông thôn và những người lao động để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong những sáng tác của ông. Năm 1970, Nguyễn Huy Thiệp tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trước khi trở thành người viết chuyên nghiệp, ông đã có nhiều năm là một thày giáo ở miền núi. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu khá muộn với các truyện ngắn đăng trên báo Văn Nghệ. Tuy nhiên chỉ một vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về các tác phẩm của ông. Với hơn 50 truyện ngắn, 10 vở kịch, 4 tiểu thuyết cùng nhiều tiểu luận, phê bình văn học gây chú ý, Nguyễn Huy Thiệp được xem là một “hiện tượng hiếm” của văn đàn Việt Nam. Các thể loại của ông đa dạng từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến cả kịch mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích và những góc nhìn táo bạo và đa chiều về làng quê, người lao động. Tên tuổi của ông gắn liền với các truyện ngắn như “Tướng về hưu”, “Muối của rừng”, “Không có vua”, “Con gái thủy thần”, “Những người thợ xẻ”, “Thương nhớ đồng quê”, “Sang sông”… và bộ ba truyện ngắn lịch sử gồm “Kiếm sắc”, “Vàng lửa”, “Phẩm tiết”… Ba cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã được xuất bản gồm “Tiểu long nữ”, “Gạ tình lấy điểm”, “Tuổi 20 yêu dấu”. Các tác phẩm “Tướng về hưu”, “Thương nhớ đồng quê” của ông đã được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh và cũng đã gây tiếng vang… Truyện ngắn của ông cũng được dịch sang nhiều ngôn ngữ như Pháp, Anh, Italy, Thụy Điển, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonesia… Năm 2007, 2008, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp liên tục nhận Huân chương Văn học Nghệ thuật của Pháp và giải thưởng Premio Nonino của Italy. Năm 2015, ông hoàn thành tiểu thuyết “Vong bướm” và quyết định dừng nghiệp sáng tác ở tuổi 65. Nguyễn Huy Thiệp cũng là một trong 50 tác giả có các tác phẩm, cụm tác phẩm xuất sắc được đề nghị xét tặng Giải thưởng Nhà nước trong lĩnh vực Văn học nghệ thuật 2021. Hai tác phẩm được đề nghị xét giải của ông là truyện ngắn “Tướng về hưu” và “Những ngọn gió Hua Tát”. Sinh thời, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khiêm tốn tự nhận ông “là một dạng ăn may, may mắn gặp thời” nhưng ông rất xác tín về “phẩm chất của một nhà văn”. Tác giả “Tướng về hưu” dẫn lại “lời của các cụ ngày xưa” mà ông tâm ý chính là lời nói của nhà bác học Lê Quý Đôn 1726-1784 “Văn học không phải trò chơi, là câu chuyện phiếm. Muốn văn hay phải hiểu biết và từng trải nhiều. Văn chương chữ nghĩa không phải là lời nói suông. Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có núi sông kỳ lạ của thiên hạ thì không thể làm văn được”. Đánh giá về vai trò của Nguyễn Huy Thiệp trong văn chương Việt Nam từ 1975-1991, nhà phê bình La Khắc Hòa nhận định “Nguyễn Minh Châu mở đường đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 với truyện ngắn Bức tranh. Còn Nguyễn Huy Thiệp là người đầu tiên tạo ra bước ngoặt quan trọng của đổi mới”. Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã nhận định rằng, một mình Nguyễn Huy Thiệp không làm nên được diện mạo của nền văn học Việt Nam sau 1975 đến nay, nhưng một mình ông lại có thể đào xới lên nhiều vấn đề thuộc về bản chất văn học, tạo nên sức bật khỏi ảnh hưởng văn học trước 1975, từ đó đưa văn học Việt Nam sau 1975 đi xa hơn, vững vàng hơn trên hành trình đổi mới văn học dân tộc, hòa nhập vào biển cả văn học hiện đại của thế giới. Thấm đượm trên ngòi bút sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là tư tưởng triết học tự nhiên, một thứ triết học nguyên sơ, bắt nguồn từ tín ngưỡng phồn thực sâu xa của nền văn hóa cổ Đông Nam Á. Những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp một mặt là sự tiếp nối, bảo lưu nguồn mạch văn học dân gian, mặt khác lại tiếp thu tính hiện đại, đánh dấu bước ngoặt của văn học Việt Nam thời đổi mới, khai phá những chủ đề như cái phi lý, sự cô đơn, tha hóa của xã hội… hòa vào dòng chảy của chủ nghĩa hiện đại trong văn học thế giới thế kỷ XX. Bằng ngòi bút đầy bản lĩnh và tài năng sáng tạo, Nguyễn Huy Thiệp đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy nghệ thuật so với truyền thống. Những tác phẩm của ông mang lại cho độc giả một cảm giác vừa thân quen, vừa lạ lẫm, vừa truyền thống, vừa hiện đại. Nét cá tính và phóng khoáng, không bị gò bó bởi khuôn mẫu đã khiến cho văn chương của ông có sức hút một cách kỳ lạ khó có thể diễn tả. Nguyễn Huy Thiệp – “ông vua truyện ngắn” Có sự nghiệp văn chương đồ sộ, được xem là “của hiếm”, là “hiện tượng độc đáo” thậm chí đến mức gây tranh cãi với các thể loại sáng tác gồm truyện ngắn, kịch, tiểu luận, phê bình văn học, song nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thành công nhất là truyện ngắn. Trong các tác phẩm nổi tiếng của ông, nổi bật nhất với “Tướng về hưu” phổ biến lần đầu vào tháng 6-1987 trên Báo Văn nghệ – lúc bấy giờ Nguyễn Huy Thiệp còn là nhân viên Công ty Sách – thiết bị trường học thuộc Bộ Giáo dục và “chưa có tên tuổi gì ở trên văn đàn” như ông tự nhận. Với tác phẩm “Tướng về hưu”, điều độc đáo mà bao nhà nghiên cứu phê bình văn học, giới mộ điệu văn chương và công chúng thưởng thức từng bình phẩm, tranh luận suốt hơn 30 năm qua đó chính là câu chuyện, dòng văn độc đáo, khó ai bắt chước trên một cốt truyện lẫn nhân vật bình thường. Thật vậy, những câu đơn với giọng kể chắt lọc, súc tích của ông đi sâu vào tâm trí người đọc dẫu cho nó có chua chát hay nhẹ nhàng. Hiện thực cuộc sống, số phận con người trong xã hội sau chiến tranh từ đó được phản ánh rất mạnh mẽ bằng thủ pháp văn chương rất riêng của Nguyễn Huy Thiệp. Không có cái gì là đơn giản, một chiều trong thế giới nhân vật trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Vương Trí Nhàn nhận định “Nếu có một thứ “quả bóng vàng” hay là “cây bút vàng” dành để tặng cho các cây bút xuất sắc hằng năm, thì trong năm 1987 – và cả nửa đầu năm 1988 – người xứng đáng được giải trong văn xuôi ta, có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp. Nhắc tới anh, người ta nhớ “Tướng về hưu” gây xôn xao một dạo, bởi cách viết rạch ròi, trần trụi; nhớ Muối của rừng tưởng như không đâu, hóa ra lại đượm nhiều ngụ ý âm thầm; nhớ “Một thoáng Xuân Hương” lịch duyệt mang đậm phong vị kẻ sĩ Bắc Hà; nhớ “Con gái thuỷ thần” lẫn lộn hư thực, và liều lĩnh đến tùy tiện”. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ những người nghèo khổ, hay những người mang hình dạng kì dị… tuy mang dáng dấp cổ tích, nhưng lại chất chứa những cảm giác thời hiện đại. Họ luôn luôn dấn thân trên con đường đi tìm hạnh phúc, đi tìm cái Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối, để rồi nhận được những bài học cay đắng, xót xa. Với tuyên ngôn “Tôi căm ghét sâu sắc những kết thúc có hậu”, những truyện ngắn “giả cổ tích”, “giả truyền kỳ” của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết đều kết thúc không có hậu. Nó mở ra những dự cảm, những cảm xúc tái tê đằng sau khối cô văn lạnh lùng của một cây bút tỉnh táo, sắc nhạy, khiến cho người đọc cứ thế ngấm dần, ngấm dần và xoáy theo luồng xúc cảm cùng những nhân vật. Với giọng văn “lạnh”, tác giả đã thể hiện một thái độ dửng dưng tuyệt đối đối với nội dung tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm. Qua giọng văn ấy, thế giới nhân vật, nội dung câu chuyện luôn hiện ra một chất trung thực, khách quan trước mắt người đọc. Người đọc được tách biệt hoàn toàn so với thiên kiến của tác giả. Độc giả được tự do phán xét nhân vật theo chủ kiến của mình. Trong nhiều truyện ngắn “Không có vua”, “Những bài học nông thôn”, “Tướng về hưu”… tác giả cũng nhập vào vai người kể chuyện nhân vật xưng “tôi” nhưng vẫn cố ý tách ra khỏi câu chuyện để đảm bảo tính khách quan. Để tạo ra được giọng văn “lạnh”, Nguyễn Huy Thiệp dùng nhiều câu trần thuật ngắn gọn, súc tích, mang đậm tính liệt kê. Nguyễn Huy Thiệp rất chuộng dùng câu đơn. Đối với loại câu đơn có xuất hiện thành phần phụ thì thành phần phụ thường được tách ra bằng dấu phẩy. Riêng câu ghép, các vế cũng được tách ra rạch ròi. Điển hình “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…” “Tướng về hưu”; hay “Cấn là con trưởng. Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một, hai tuổi. Đoài là công chức ngành giáo dục, Khiêm là nhân viên lò mổ thuộc Công ty thực phẩm, Khảm là sinh viên đại học. Tốn, con út, bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng. Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông” “Không có vua”… Những câu văn sắc lạnh dửng dưng như thế có mặt khắp các trang văn của Nguyễn Huy Thiệp. Nó tạo cho tác giả một nét riêng độc đáo về phong cách. Có thể thấy, hầu hết những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều chứa đựng một hoặc vài lời triết lý của ông về văn chương. Điều đó chứng tỏ, Nguyễn Huy Thiệp là người hay trăn trở về văn chương và ý nghĩa của nó. Những triết lý đó, được phát biểu gián tiếp qua các nhân vật, qua tình huống truyện hoặc đôi khi phát biểu một cách trực tiếp. Trước đây, Nam Cao cũng thường thể hiện những quan niệm của mình trên trang viết của mình. Nhưng với Nguyễn Huy Thiệp, văn chương không đơn giản và rành mạch như Nam Cao. Cái nhìn của ông về văn chương có gì đó rất phức tạp – phức tạp như chính cuộc đời, khi thì “văn chương là thứ bỉ ổi nhất” “Chút thoáng Xuân Hương”, khi thì “văn chương có cái gì từa tựa lẽ phải” “Giọt máu”, khi thì “văn chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống, có thứ văn chương sửa mình, có thứ văn chương trốn đời, trốn việc. Lại có thứ văn chương làm loạn” “Giọt máu”. Những triết lý đó đã phá vỡ cái khuôn mẫu, từ đó chính ông đã dùng ngòi bút và con mắt tinh tường của mình khiến huyền thoại hóa giải huyền thoại, dùng cổ tích để hóa giải cổ tích. Tinh thần “tự phê”, “tự nghiệm”, ý thức phản tỉnh và tra vấn đã làm nên sức mạnh và giá trị của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cái tâm của nhà văn, không gì khác hơn, chính là sự thức nhận về sứ mệnh “khơi gợi chân lý”, tra vấn nhân tâm của người nghệ sĩ. Đồng thời, tinh thần nghệ thuật hiện đại cũng không cho phép một sự ban phát chân lý cuối cùng, một tư thế độc thoại giữa nhà văn và bạn đọc. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang màu sắc dân chủ và hiện đại bởi đó là những tác phẩm “mở”, ở đó, cả người viết và người đọc đều được đẩy vào một cuộc đối thoại lớn và nhà văn “để ngỏ cuộc đối thoại đó mà không đánh dấu chấm hết”. Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã để lại một khoảng trống rất lớn đối với văn đàn Việt Nam. Đối với nhà văn Nguyễn Văn Thọ “Nguyễn Huy Thiệp mất, tôi mất đi một bạn văn lớn – người chia sẻ với tôi rất nhiều về bút pháp, về vị trí và vai trò của nhà văn trong xã hội. Đồng thời, sự ra đi của anh, tạo ra một lỗ thủng đối với văn đàn Việt Nam”. Còn theo nhà phê bình Văn Giá “trước Nguyễn Huy Thiệp, văn học Việt Nam khác. Từ Nguyễn Huy Thiệp trở đi, văn học Việt Nam khác. Ông đã cắm một dấu mốc rất ghê gớm và quan trọng vào đời sống văn học Việt Nam. Trong đổi mới, có những đổi mới từ từ, từ người này đến người kia. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện năm 1987, đã gây nên một dấu ấn đậm nét. Ông tạo ra một cảm quan, cái nhìn mới về đời sống, dẫn đến một hướng viết mới, một ngôn ngữ mới, một cách biểu đạt mới trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có sứ mệnh đổi mới văn học; và ông đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình”. Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng rất đau buồn khi nền văn học nước nhà mất đi một cây đại thụ. Theo ông “thời kỳ 1985-1996, ở mảng truyện ngắn, không ai viết hay hơn Nguyễn Huy Thiệp. Giọng văn của ông có chất riêng, ngắn gọn, sắc nét, không dông dài. Điều mừng là cuối đời ông có tên trong danh sách xét tặng giải thưởng Nhà nước. Đó là ghi nhận xứng đáng cho tài năng của ông”. DIỆP NINH/ TTXVN Xem thêm Thơ 1-2-3 Đặng Ngọc Tam Giang Tận cuối sông chờ… ta gào sóng Huế là em! Nhà thơ Giang Nam đã về với “Quê hương” xanh thẳm Thơ 1-2-3 Lê Lệ Thủy Trang giấy trắng cần cây bút lành viết ý đẹp lời hay Chùm thơ 1-2-3 Phạm Tuyết Hạnh Đường vắng người thưa hun hút phố buồn Cảm thức về phái đẹp trong thơ Hàn Mặc Tử Khi bạn bè đàm đạo chuyện nhân tình thế thái, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thường chỉ cười. Hay tin Nguyễn Huy Thiệp qua đời, nhà văn Nguyễn Văn Thọ nhớ về ký ức cuối được bạn làm thơ tặng. Vài tháng trước, khi Nguyễn Văn Thọ tới thăm, Nguyễn Huy Thiệp nửa nằm nửa ngồi trên chiếc bàn con, tay run run viết "Anh Nguyễn Văn Thọ/ Bạn thân của tôi/ Bốn mươi năm lẻ/ Một tấm lòng vàng...". Thần trí ông lúc này không còn tốt, chỉ viết được những câu lặp đi lặp lại, nhưng khiến Nguyễn Văn Thọ xúc động khôn mắc tai biến tập đứng, tập đi, riêng Nguyễn Huy Thiệp tập viết, tập vẽ. Trên giường bệnh, ngoài những vần thơ, bức tranh nguệch ngoạc tặng người thân, ông hay suy ngẫm sự đời. Một ngày tháng 9 cuối năm ngoái, ông viết "Cuộc sống tươi đẹp/ Là do con người/ Mọi điều kỳ diệu/ Tất cả...". Hai chữ cuối con trai ông không dịch được. Khi hỏi lại, ông cũng không nhớ mình viết gì. Cuối năm ngoái, ông viết "Sinh lão bệnh tử/ Luật trời đã ban/ Thì đành chấp nhận/ Với nụ cười thôi... Nói chỉ nói vậy thôi/ Lòng buồn không tả nổi".Nhà văn Trần Thị Trường nhớ mười năm trước, ông từng bị đột quỵ rồi hồi phục. Trận tai biến đầu năm ngoái đã quật ngã ông. "Nhà văn là người tự trọng, từ ngày nằm liệt giường, ông từ chối nhiều cuộc viếng thăm, chỉ gặp bạn bè thân thiết. Khi cùng con trai chống gậy, lần từng bước, mắt ông ánh lên quyết tâm lội ngược dòng. Thế nhưng sau khi vợ mất, tinh thần ông sa sút, muốn buông xuôi. Lần cuối chúng tôi gặp nhau là vài tuần trước. Khi con trai bón sữa, ông nhổ ra", nhà văn Trần Thị Trường nói. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi ra mắt "Tuổi 20 yêu dấu" năm 2018. Ảnh Hà Đỗ. Tang lễ nhà văn sẽ được tổ chức sáng 24/3 tại Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Thi hài được hỏa táng tại Nhà hóa thân hoàn vũ, Văn Điển sau đó đưa về nghĩa trang gia đình ở thôn Tằng My, xã Nam Hồng, Đông Anh chiều cùng ngày. Trong mắt bạn bè, Nguyễn Huy Thiệp hiền lành, nhút nhát. Ông ăn vận giản dị, dáng điệu lù khù như một lão nông đích thực. Thời bao cấp, mỗi lần có nhuận bút, ông và Nguyễn Văn Thọ rủ nhau đi nhậu. Nguyễn Văn Thọ hay sang nhà bạn chơi, được gia đình ông tiếp đãi nhiệt tình. Nhà văn Trần Thị Trường nhớ vợ chồng ông hay đãi khách các món ăn dân dã như canh cua, canh dọc mùng. Trên mâm cơm nhà ông lúc nào cũng có cà nén - đặc sản của quê nhà Khương Đình Hà Nội. Ông không uống rượu, hút thuốc. Một lần, ông cùng Trung Trung Đỉnh, Bảo Ninh đến nhà họa sĩ Lê Thiết Cương chơi. Trong khi mọi người đàm đạo chuyện nhân tình thế thái, Nguyễn Huy Thiệp chỉ ngồi quan sát và cười. Ông không hoạt ngôn, chỉ nói chuyện văn chương là hào hứng. Nhiều lần, ông và Nguyễn Văn Thọ cãi nhau vì quan điểm văn chương khác biệt. Cãi xong, họ lại kề vai bá cổ, cùng ăn cơm, chuyện Huy Thiệp trân trọng nghiệp viết. Ông từng nói với nhà thơ Hồng Thanh Quang "Viết văn là một trong những công việc quan trọng trong cuộc đời. Trong cuộc đời còn có nhiều việc cũng quan trọng không kém và cũng hay không kém, những công việc của một con người bình thường. Nghề nào cũng có cái hay của nó... Nhưng nghề viết văn, nó đặc biệt, vì nó là bát nhã. Nó là một cái gì đấy về sáng tạo và lý thú. Một khi anh đã sáng tạo thì anh đánh lừa được thần chết, thậm chí đánh lừa được thời gian".Con trai út ông - anh Huy Khoa - kể khi còn khỏe mạnh, nhà văn thường chong đèn viết lách đến khuya. Tuyên bố gác bút năm 2014 nhưng ông âm thầm viết một tiểu thuyết, vài truyện ngắn, hai vở kịch. Ông không biết dùng máy tính, cần mẫn viết bản thảo bằng lành, ít nói ngoài đời, Nguyễn Huy Thiệp dồn nén mọi sắc sảo vào văn chương. Ông nổi lên từ năm 1985 qua những truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ đề tài nông thôn. Sau Tướng về hưu 1987 và Những ngọn gió Hua Tát 1989, ông trở thành hiện tượng độc nhất vô nhị. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ nói "Những tác phẩm của ông ra đời trong thời kỳ đổi mới, nhìn thẳng vào hiện thực bức bối của xã hội giao thoa giữa những giá trị cũ và mới, còn tồn đọng nhiều dư âm lạc hậu của một thời đã qua. Ông lên án cái ác, sự bất cập của mỗi thời, nâng niu những giá trị đạo đức nguyên thủy của người Việt".Lối viết thẳng thắn, trần trụi của ông từng gây ra nhiều tranh cãi trên văn đàn. Nhà văn Trung Trung Đỉnh viết trong phần mở đầu Ngõ lỗ thủng "Bấy lâu nay, giới văn chương nước nhà dấy lên một cuộc cãi lộn khá sôi nổi, về nhân cách của nhà văn. Một bên khen ông Nguyễn Huy Thiệp là viết hay, viết sắc sảo và trung thực. Còn một bên chửi ông Thiệp là đồ bịp bợm, ăn nói văng mạng, tục tĩu đểu cáng".Thế nhưng qua thời gian, văn chương Nguyễn Huy Thiệp chứng minh sức sống, tính nhân văn. Theo Nguyễn Văn Thọ, các tác phẩm của ông vừa có giá trị tư tưởng, vừa có giá trị nghệ thuật lớn nhờ giọng văn đặc biệt, các chi tiết sắc nét, cách cấu tứ nhân vật có hơi thở, màu sắc riêng. Ông đã chạm vào những vấn đề liên quan đến vận mệnh, đời sống của dân tộc, đòi hỏi những nhà văn có lương tri, lương tâm nhìn vào. Nguyễn Huy Thiệp trò chuyện về "Tuổi 20 yêu dấu" - tiểu thuyết lấy cảm hứng từ con trai ông. Video Hà văn Trần Thị Trường gọi ông là "người viết truyện ngắn xuất sắc" trong một giai đoạn dài của văn học Việt Nam. Ông viết giỏi, viết hay về đề tài nông thôn, điển hình như truyện ngắn Những bài học nông thôn. Dù bằng tuổi nhau, Trần Thị Trường gọi Nguyễn Huy Thiệp là anh vì ngưỡng mộ tài năng, sức viết của ông. Sau nhiều năm, bà vẫn đọc đi đọc lại các tác phẩm Những ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy thần, Kéo cưa lừa xẻ, Muối của rừng...Xuất thân là một giáo viên dạy sử, ông thích đọc sách sử và nhiều lĩnh vực. Các tác phẩm của ông vì thế kiến thức dày dặn, đặc biệt thể hiện qua bộ ba tác phẩm văn học sử Phẩm tiết, Kiếm sắc, Vàng lửa. "Ba truyện ngắn từng gây tranh cãi khi đưa ra những góc nhìn mới mẻ về các nhân vật lịch sử. Tuy nhiên, ông phê phán cái cũ bởi mong muốn một tương lai không dẫm phải vết xe đổ của lịch sử. Tôi nghĩ sẽ không bao giờ có một Nguyễn Huy Thiệp thứ hai", nhà văn Trần Thị Trường chỉ sáng tác, ông từng ra mắt tuyển tập Giăng lưới bắt chim, gồm 40 bài phê bình văn học. Ông viết phê bình cũng thẳng thừng, không kiêng dè như viết văn, khiến nhà phê bình Chu Văn Sơn từng nhận xét "Phũ là phong cách phê bình của Nguyễn Huy Thiệp". Còn nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói "Những lời ác khẩu của anh chứa đựng sự nhân văn, cao đẹp".Thu Huế Luận văn tốt nghiệpLời nói đầuNguyễn Huy Thiệp là một hiện t ợng văn học hết sứcnổi bật của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói riêng vàvăn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm của ông có giá trịrất cao về nhiều mặt. Chúng tôi xin đ ợc phép chọn mộtvấn đề trong truyện ngắn của ông là ngôn ngữ để tiếnhành làm khoá hoàn thành đ ợc luận văn này chúng tôi rất biết ơncác thầy cô giáo trong khoa ngữ văn , các thầy cô giáotrong tổ ngôn ngữ, đã hết sức tận tình dạy dỗ và giúp đỡtôi. Đặc biệt tôi xin đ ợc gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầygiáo Đoàn Mạnh Tiến - ng ời trực tiếp h ớng dẫn tôi làmkhoá luậnLuận văn này là những b ớc đầu tiên tôi tập d ợtnghiên cứu khoa học. Vì thế chăc chắn rằng nó còn nhiềuthiếu sót cần bổ sung. Tác giả luận văn kính mong đ ợc sựchỉ dạy, đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và tất cả cácbạnXin chân thành cảm ơnVinh, tháng 5 năm 2005Sinh viên thực hiệnHoàng Khánh HngPhần mở đầuI. Lý do chọn đề tàiHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn1Luận văn tốt nghiệpNguyễn Huy Thiệp xuất hiện trong nền văn học hiện đại Việt Nam đãgây nên một sự chấn động lớn. "Thật hiếm trong văn chơng Việt Nam xa nay,tôi dám chắc là cha có nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây đợc d luận, càng viếtd luận càng mạnh, truyện cha ra thì ngời ta đã kháo nhau, truyện đăng rồi thìtranh nhau tìm đọc, đọc rồi thì gặp nhau bình phẩm, bàn tán, chốn phòng văncũng nh chốn vỉa hè đâu đâu cung kháo chuyện... Phạm Xuân Nguyên.Nguyễn Huy Thiệp đợc ngời ta quan tâm nhiều trớc hết là bởi nhữngcách tân mới mẻ trong nghệ thuật. Đề tài của ông không hoàn toàn mới. Nó cómột ít của Vũ Trọng Phụng, của Tô Hoài, của Ma Văn Kháng, một ít của Dơng Thu Hơng, của Nguyễn Thị Thu Huệ... Tuy vậy nó vẫn rất hấp dẫn ngờiđọc. Có đợc điều này là nhờ những cách tân nghệ thuật của tác giả, đặc biệt làtrong cách sử dụng ngôn ngữ. Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt tỉ mỉ, kỹ lỡng trongcách miêu tả mọi biến động của cuộc sống. "Tác giả đã không ngần ngại nêulên những sự bê tha nhếch nhác trong cuộc sống, kể cả những sự thật rùng rợn,khủng khiếp..." và "Dẫu là kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy Thiệp trớc sau viếtvề cuộc sống ngày hôm nay. Và tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật của đời sốnghiện tại"... Hoàng Ngọc Hiến. Cốt truyện của ông không hề giật gân, mà nóchỉ là cuộc sống bình thờng của ngời dân lao động. Cuộc sống vẫn cứ "thaothiết" chảy, nó chảy vào nhịp của văn chơng. Cuộc sống hỗn loạn, xô bồ. Văncủa Thiệp là cả một tổng thể hỗn loạn sự kiện, nằm trong "lới nhện" của ngôntừ cuốn hút ngời đọc mãnh liệt. Ngời đọc khi đọc truyện cứ nh đang đánh vậtvới ngôn từ. Nói theo cách nói của Đông La là "đọc văn chơng của họ nặngnhọc nh đang lao động sản xuất vậy". Mà đúng là lao động thật, một sự laođộng nghệ thuật nghiêm chúng tôi, ma lực hấp dẫn nhất của truyện ngắn Nguyễn HuyThiệp là con mắt nhìn và sử dụng ngôn từ. Con mắt nhìn cuộc sống thì đầytriết lý, ngôn từ thì rất riêng. Hai vấn đề này quan hệ biện chứng với nhautrong tác phẩm. Phải có con mắt nhìn mới mẻ, đầy phát hiện mới có thể sửdụng từ ngữ một cách xuất sắc, sáng tạo. Ngợc lại phải có cách sử dụng từ ngữđặc biệt mới diễn đạt hết đợc những cách nhìn nhận cuộc sống đầy triết lý ngữ trong truyện ngắn của ông vừa dửng dng lạnh lùng, vừa "xămxoi" khó chịu. Nó khiến cho ngời đọc có lúc thấy hả hê, sung sớng, có lúcthấy xấu hổ e thẹn, có lúc lại bứt rứt khó chịu. Ngôn ngữ của truyện ngắnNguyễn Huy Thiệp đặc sắc từ cách dùng từ, dùng kết cấu câu, đoạn văn đếnHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn2Luận văn tốt nghiệpcả các biện pháp tu từ nghệ thuật. Nó lôi cuốn ngời đọc bằng cách sử dụngnhững đối thoại, độc thoại và lời dẫn chuyện của tác giả. Nó diễn tả một cái gìđó "vừa thờng xót lại vừa đau đớn". Nó hệt nh một gã khùng luôn bất mãn vàcay cú với cuộc một số ý kiến cho rằng "văn Nguyễn Huy Thiệp có vấn đề". Tôikhông dám chắc "vấn đề" mà họ đề cập đến là nh thế nào. Chúng tôi thì khôngcho là nh vậy. Nguyễn Huy Thiệp chỉ là nhà văn viết lên sự thật của cuộcsống. Văn học tôn thờ sự thật và có tính chất đào thải, loại bỏ tự nhiên. VănThiệp không phải là món ăn lạ miệng, con vật kỳ dị để những ngời hiếu kỳ thởng thức. Trớc sau văn của Nguyễn Huy Thiệp vẫn hớng đến cuộc sống, hớngvào cái thiện, cái của cuộc sống. Nguyễn Huy Thiệp luôn luôn đặt niềm tin vàhớng con ngời đến bản tính thiện vốn có của những lý do rất đặc biệt về truyện ngắn của ông nói chung và ngônngữ của ông nói riêng, chúng tôi xin đợc chọn đề tài "Đặc điểm ngôn ngữtrong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp". Chúng tôi mong rằng sẽ đóng gópmột phần nào đó, giúp ngời đọc, ngời nghiên cứu có thêm cách nhìn khi tiếpcận với các truyện ngắn của Nguyễn Huy Mục đích yêu cầu của đề tàiĐề tài của chúng tôi nhằm thực hiện các mục đích sau1. Tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài vàphòng cách của nhà văn Nguyễn Huy Tìm hiểu khảo sát và phát hiện những đặc điểm tiêu biểu về ngôn ngữcủa nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Qua đó thấy đợc những đóng góp mới mẻ củanhà văn trong cách sử dụng ngôn ngữ và hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụngngôn Khẳng định Nguyễn Huy Thiệp là ngòi bút "táo bạo với những cáchtân mới mẻ, hết sức quan trọng và đáng đợc trân trọng đối với việc sử dụngngôn ngữ. Góp phần làm hiện đại hoá nền văn học Việt Nam hiện Giới hạn đề tài1. Về t liệu khảo bộ t liệu khảo sát chúng tôi đều tiến hành khảo sát trong tập truyệnngắn "Nguyễn Huy Thiệp" Nxb Văn Tập truyện gồm 37 truyệntính cụm "Những ngọn gió Hua Tát" là một truyện.2. Về phạm vi nghiên cứuHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn3Luận văn tốt nghiệpChúng tôi chỉ mới bớc đầu tìm hiểu những đặc điểm chúng nhất vềngôn ngữ. Tuy vậy cũng do thời gian có hạn, cha thể tìm hiểu hết đợc mà chỉdừng lại ở một số vấn đề về ngôn ngữ mà thôi. Từ đó bớc đầu đa ra một số ýkiến đánh giá nhận xét về ngôn Lịch sử vấn đềNguyễn Huy Thiệp là một nhà văn gây xôn xao d luận, tuy vậy vì ôngmới xuất hiện nên các công trình nghiên cứu về ông cha nhiều. Ông là mộttác giả đã xuất hiện trên văn đàn hơn hai thập kỷ nay, ông đã tạo dựng đợcmột phong cách riêng, nhng nó cũng cần đợc khẳng định trong thời cạnh đó, Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tợng văn học hết sức đặcbiệt, "có nhiều phức tạp" và "nhạy cảm" nên các nhà ngôn ngữ cũng dè dặt khivào cuộc. Phần lới các bài viết về Nguyễn Huy Thiệp là những bài viết nhỏ lẻ,đăng rải rác trên một số báo, tạp chí trong và ngoài nớc. Nó đợc tập hợp kháđầy đủ trong cuốn "Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp" do Phạm Xuân Nguyên su tầmvà biên soạn. Tuy vậy những bài viết này hầu hết chỉ dừng lại ở những suynghĩ mang tính chất cảm tính của một số tác giả, độc giả không chuyên, hoặclà những nghiên cứu, nhận xét nhỏ về từng vấn đề nhỏ, cha đúng nghĩa là mộtcông trình khoa học. Ngoài ra cũng có một số khoá luận tốt nghiệp của một sốsinh viên về các vấn đề khác nhau. Đáng chú ý nhất là luận văn thạc sĩ của LêThanh Nga Đại học Vinh.1. Trên phơng diện văn học nói chung thì các tác giả hầu hết chỉ đề cậpđến một số tác phẩm nhất định nh "Tớng về hu" một tác phẩm có tính nghệthuật của Trần Đạo; "về một cách .... Truyện ngắn "Vàng lửa" của Thuỳ Sơng;sự "mơ mộng" và "nghiêm khắc" trong truyện ngắn "Phẩm tiết" của Đỗ VănKhang; "Đoán thiên về Nguyễn Thị Lộ của Nguyễn Huy Thiệp" của Đỗ VănKhang; "Biển không có thuỷ thần" của Đặng Anh Đào...Cũng có những bài viết đánh giá tổng quát toàn bộ tác phẩm của ôngnh "Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp" của Evelipe Pieller; "Về ma lực trongtruyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp" của Đông La; "Tôi không chúc bạn thuậnbuồm xuôi gió" của Hoàng Ngọc Hiến; "Xung quanh sáng tác Nguyễn HuyThiệp" của Hồng bài viết này đều góp phần tìm hiểu phong cách, những đặc điểmlớn của tác giả. Tuy vậy đây là "một hiện tợng văn học phức tạp" nêu ý kiến củacác tác giả vẫn cha đi đến thống nhất. Rất nhiều vấn đề đặt ra và đợc bỏ Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn4Luận văn tốt nghiệp2. Vấn đề ngôn ngữ thì theo chỗ chúng tôi đợc biết đến nay cha có mộtcông trình nào đề cập đến một cách trọn vẹn. Các bài viết hoặc chỉ đặc ra vấnđề trong một tác phẩm nh "Lời thoại trong truyện ngắn "Tớng về hu" củaNguyễn Thị Hơng. Hoặc là một vấn đề về ngôn ngữ nh "Độc thoại - định hớng hành động nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp" của Lê Sao bài viết khác cũng dành một phần nhỏ trong bài viết hoặc côngtrình của mình để nói về ngôn ngữ nh các bài viết của Đông La, Filimônôva,Trần Đạo, Hoàng Ngọc Hiến, ... luận văn thạc sĩ của Lê Thanh Nga...Nh vậy, hầu nh vấn đề ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệpcòn đợc bỏ ngỏ. Nó cha xứng tầm với những đóng góp mà tác giả đã đem lạitrong vấn đề ngôn ngữ. Ngôn ngữ là vấn đề hết sức quan trọng nếu không muốnnói là quyết định tạo nên phong cách của nhà văn Nguyễn Huy tác giả đi trớc mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số mặt, mộtsố vấn đề về ngôn ngữ. Thực hiện đề tài này, chúng tôi cũng không có thamvọng ngôn ngữ toàn bộ những đặc điểm về ngôn ngữ của truyện ngắn NguyễnHuy Thiệp. Tác giả luận văn chỉ mới tìm hiểu trên một số vấn đề nh cáchdùng từ, đặt câu, đoạn văn, một số biện pháp tu từ... mong bớc đầu dựng lênmột bộ khung toàn diện hơn về ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn HuyThiệp mà Phơng pháp nghiên cứuĐể thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phơng pháp sau1. Phơng pháp thống kê t liệuVới phơng pháp, này, chúng tôi thống kê và tìm ra những dấu hiệu, yếutố đặc sắc về ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Phơng pháp phân tích xứ lý t liệuTác giả luận văn phân tích, xử lý bằng nhiều cách và phân loại những tliệu khảo sát Phơng pháp so sánh - đối chiếuSau bớc xử lý t liệu, chúng tôi sử dụng phơng pháp so sánh - đối chiếuđể từ đó tìm ra những nét tơng đồng và khác biệt của mỗi loại. Đây chính là cơsở để quy từng nhóm, phân từng loại đặc điểm trong ngôn ngữ truyện ngắnNguyễn Huy Phơng pháp phân tích tổng hợpVề phân tích từng hiện tợng ngôn ngữ riêng lẻ cũng nh việc lý giải mốiquan hệ của một hiện tợng với một hiện tợng cùng loại hay khác loại đợc tiếnHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn5Luận văn tốt nghiệphành đồng thời với quá trình tổng hợp để rút ra những nhận định phổ quát, quycác hiện tợng riêng lẻ nhằm đi đến kết luận chung một cách phù nhiên các phơng pháp trên không tiến hành một cách riêng lẻ mà sửdụng đồng thời trong quá trình tiến hành làm luận Bố cục của luận vănNgoài phần mở đầu và phần kết luận, phần chính của luận văn gồm 3 chơngChơng I Một số vấn đề giới thuyết chung liên quan đến đề tàiChơng II Một số đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy III Vài cảm nhận về nét độc đáo của ngôn ngữ truyện ngắn NguyễnHuy Thiệp trong tơng quan với các tác phẩm Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn6Luận văn tốt nghiệpPhần nội dungChơng IMột số vấn đề giới thuyết chung liên quan đến đề tàiTrớc khi nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn HuyThiệp chúng tôi xin đợc đề cập đến một số vấn đề về giới thuyết liên quan đếnđề tài. Đặc điểm ngôn ngữ là một vấn đề về phong cách. Vì vậy trong chơngnày chúng tôi cũng sẽ đề cập đến phong Phong cáchTừ "phong cách" hiện nay đợc sử dụng rất rộng rãi trong đời sống, ởnhiều lĩnh vực khác nhau. Hầu nh ở bất kỳ lĩnh vực nào ngời ta cũng có thể sửdụng từ "phong cách" nh phong cách ăn mặc; phong cách sống; phong cáchlàm việc; phong cách ngoại giao; phong cách nói... Trong những trờng hợpnày "phong cách"đồng nghĩa với "tác phong" là tác phong ăn mặc, tác phonglàm việc, tác phong ngoại giao...Không chỉ trong đời sống hàng ngày mà trong khoa học từ "phongcách" đợc sử dụng hết sức rộng rãi. Phong cách đợc xem là thuật ngữ khoahọc. Trong ngôn ngữ "phong cách" đợc sử dụng rất rõ. Ngôn ngữ mang tínhchất xã hội, trong từng cá nhân, xã hội, lĩnh vực khác nhau thì đợc vận dụngkhác nhau dẫn đến phong cách khác nhau. Trong ngôn ngữ học, "phong cách"là những dạng của ngôn ngữ sử dụng theo mục đích, hoàn cảnh, đối tợng cụthể nào đó, phân biệt với những đặc điểm về từ vựng, ngữ âm, ngữ hạn nh phong cách ngôn ngữ chính luận, phong cách ngôn ngữ khoahọc, phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ báo vậy, khi niệm phong cách hết sức phong phú. Hiện nay nó còn tồntại nhiều khái niệm khác nhau về phong cách, cha đi đến đợc sự thống cạnh khái niệm phong cách còn tồn tại các khái niệm gần gũi nónh khái niệm phơng pháp và khuynh hớng nghệ Phong cách nghệ thuậtPhong cách nghệ thuật là "Một phạm trù thẩm mĩ chỉ sự thống nhất, tơng đối ổn định của hệ thống hình tợng, của các phơng tiện biểu hiện nghệthuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà cách nghệ thuật có thể đợc hiểu trên nhiều khía cạnh khác nhaucủa văn học- Phong cách tác giả- Phong cách thể loại văn họcHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn7Luận văn tốt nghiệp- Phong cách của một trờng phái, trào lu, khuynyh hớng văn học, trào lunghệ Phong cách của một thời đại nghệ thuật- Phong cách ngôn ngữ nhà văn...Các dấu hiệu của phong cách dờng nh nổi lên trên bề mặt của tác phẩmnh một thể thống nhất hữu hình và có thể tri giác đợc của tất cả các yếu tố cơbản của hình thức nghệ đó ta thấy, dựa vào phong cách chúng ta có thể nhận ra đợc, phânloại đợc giữa các nhà văn này với nhà văn khác, trào lu văn học này với trào luvăn học khác, thậm chí dân tộc này với dân tộc khác. Cái tạo nên sự thốngnhất ở mỗi nhà văn mỗi trào lu, dân tộc thể hiện tập trung ở cách đánh giá,nhìn nhận thể giới khách quan và hệ thống thủ pháp nghệ thuật phù hợp vớicách nhìn nhận ấy. Đặc trng của phong cách là tính thống nhất của các bộphận trong một chỉnh thể, hay còn đợc gọi là tính cấu trúc. Tính chất cấu trúcthể hiện ở chỗ khi chúng ta nhìn nhận đánh giá một bộ phận có thể đánh giáđợc toàn bộ cấu trúc của nó. Chính vì điều này mà có định nghĩa cho rằng"Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu,hình thành một cách nhìn lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sự có thể chophép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác giả hay một tác phẩm"Phan Ngọc.Phong cách nghệ thuật có tính bền vững. Tuy nhiên nó cũng có nhữngbiến đổi do sự đòi hỏi của đổi mới văn học để phù hợp với đời sống. Nóichung sự biến đổi này nhìn chung là theo chiều hớng tích cực, kế thừa và pháthuy những điểm tích cực của cái Phong cách ngôn ngữPhong cách là quy luật các yếu tố của một chỉnh thể nghệ thuật. Có baonhiêu yếu tố cấu thành tác phẩm thì có bấy nhiêu phơng diện biểu hiện phongcách nghệ thuật của nhà văn. Phong cách có thể biểu hiện qua đề tài, qua hệthống nhân vật, qua việc lựa chọn thể loại, qua hệ thống các biện pháp nghệthuật, qua hệ thống cảm hứng, đặc biệt là qua ngôn vậy phong cách ngôn ngữ nằm trong phong cách nghệ thuật, nó thểhiện ở việc cá thể hoá ngôn ngữ của tác giả. Một tác phẩm nghệ thuật bao giờcũng là sự thống nhất nhiều yếu tố. Trong đó quan trọng nhất là yếu tố ngônngữ. Nhà văn phải dùng ngôn ngữ để thể hiện ý tởng, suy nghĩ của Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn8Luận văn tốt nghiệpNgôn ngữ không tự nhiên mà có. Ngôn ngữ có tính toàn dân và mang tính xãhội. Nó tồn tại và phát triển lân đới. Ngời nghệ sĩ chọn lọc ngôn ngữ để sửdụng trong tác phẩm sao cho đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Nh vậy trongtổng thể ngôn ngữ, tuỳ vào từng nhà văn và tác phẩm khác nhau thì sử dụngngôn ngữ khác nhau. Dĩ nhiên ngôn ngữ lúc này đợc sử dụng mang tính chấtcá thể, mang phong cách cá nhân rõ một phơng diện nào đó, nhà văn là ngời điều hành, tổ chức ngônngữ theo cách riêng của mình. Ngôn ngữ là chất liệu cơ bản để thể hiện hình tợng thẩm mĩ. Mỗi nhà văn do nhiều yếu tố nh t tởng, phong tục tập quán, cátính sáng tạo... mà sử dụng ngôn ngữ theo cách riêng, hình thànhgiọng điệu riêng. Giọng điệu riêng này chính là cái quan trọng nhất tạo nên sựthành bại của đời văn, tạo nên phong cách ngôn ngữ riêng cho mỗi tác đọc khi đọc một câu văn có thể nhận biết đợc nhà văn đó chính là nhờphong cách ngôn ngữ riêng nhà văn luôn tạo cho mình một giọng điệu riêng, một phong cáchriêng. Tuy nhiên phải là những nhà văn xuất sắc mới có thể làm đợc điều Xuân Hơng với giọng điệu sắc sảo, chì chiết nhng vẫn thiết tha, Nam Caovới giọng văn dửng dng lạnh lùng nhng sắc lẹm. Vũ Trọng Phụng với giọngđiệu mỉa mai châm chọc sâu cay, Nguyễn Bính với những câu thơ man mácnhẹ nhàng của đồng quê Việt Nam...Phong cách ngôn ngữ nó thể hiện trên toàn bộ cách sử dụng ngôn ngữtừ việc đợc lựa chọn từ ngữ đến việc sử dụng đặt câu, liên kết cấu, các biệnpháp tu từ... Các nhà văn tạo cho mình phong cách riêng qua cách vận dụngngôn ngữ mà chính xác lại vừa độc đáo. Nghĩa là nó vừa thể hiện đợc chínhxác điều cần diễn đạt, vừa diễn đạt một cách đặc biệt lại vừa nằm trong tổngthể ngôn ngữ dân tộc, Tất cả những phá cách, chệch chuẩn đều đợc toàn dânhiểu và chấp nhận. Chính điều này mà các nhà văn đã góp phần làm hiện đạihoá và phong phú thêm cho ngôn ngữ dân xác định phong cách ngôn ngữ của nhả văn là việc làm đối chiếungôn ngữ của nhà văn đó sử dụng trong tác phẩm với ngôn ngữ của các nhàvăn khác và với ngôn ngữ dân tộc. Khi đối chiếu ta sẽ thấy đợc nhà văn vừa cóđiểm chung vừa có điểm rất riêng, điểm rất riêng ấy chính là phong cáchnghiên cứu của nhà Ngôn ngữ nghệ thuậtNgôn ngữ là chất liệu cơ bản của văn học. Văn học là một loại hìnhnghệ thuật, sử dụng ngôn ngữ. Nh vậy văn học là nghệ thuật sử dụng ngônHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn9Luận văn tốt nghiệpngữ. Ngôn ngữ nghệ thuật đợc bắt nguồn từ ngôn ngữ toàn dân. Dới tài năngcủa từng nghệ sĩ. Ngôn ngữ đợc vận dụng, sử dụng khác nhau. Nó đợc"chế biến" làm sao khi đi vào tác phẩm đạt đợc hiệu quả nghệ thuật cao văn góp phần mình làm phong phú thêm cho ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện ở cá tính sáng tạo, phong cách, tài năngcủa ngời nghệ sĩ. Thuộc tính của ngôn ngữ nghệ thuật chính là tính chính xác,tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và tính biểu cảm. Căn cứ để phânbiệt ngôn ngữ nghệ thuật với các loại hình ngôn ngữ khác là ở chỗ ngôn ngữnghệ thuật là thứ ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mĩ. Tính hình tợng là thuộctính bán chất xuyên suốt, quy định mọi thuộc tính khác trong ngôn ngữ mối quan hệ với văn hoá, khi đã hoá thân vào nghệ thuật thì ngônngữ đã vợt khỏi chức năng sơ đẳng ban đầu, phát huy tối đa tiềm năng củamình để dựng lên một bức tranh tổng hợp và sinh động về bộ mặt tinh thầncủa xã hội. Ngôn ngữ nghệ thuật vừa là công cụ t duy, vừa là phơng tiệnchuyển tải hình tợng nghệ thuật do ngời nghệ sĩ sáng tạo ra. Ngôn ngữ khôngđơn thuần chỉ có nghĩa mà ngôn ngữ còn mang cả nét văn hoá, chiều sâu thẩmmĩ. Muốn chiếm lĩnh đợc nó ngời đọc cũng cần có tri thức về văn hoá, xãhội...Nh vậy ngôn ngữ nghệ thuật đợc chọn lọc và kết tính từ ngôn ngữ toàndân, nó là biểu hiện đầy đủ và rõ nét nhất của ngôn ngữ văn hoá. Nó có khảnăng khơi gợi cho ngời đọc và đem lại giá trị thẩm mĩ cao. Ngôn ngữ nghệthuật mang sắc thái cá nhân của chủ thể sáng tạo. Ngôn ngữ nghệ thuật làngôn ngữ hoạt động mở, nhiều nghĩa phải sinh các sắc thái nghĩa tâm Phong cách thể loạiPhong cách thể loại là nét khu biệt giữa các thể loại với nhau. Mỗi thểloại văn học có một đề tài riêng, nhân vật riêng, cách kết cấu riêng, sử dụngngôn ngữ riêng. Nếu nh sử thi nói đến những đề tài mang tính chất lịch sửtrọng đại, nhân vật là ngời anh hùng dân tộc thì tiểu thuyết đề cập đến số phậncủa cá nhân con ngời, nhân vật là con ngời bình thờng. Nếu tác phẩm lịch đềcao tình huống truyện thì truyện ngắn đi sâu vào từng chi tiết của tác trong thơ tình cảm suy nghĩ của tác giả đợc bộc lộ trực tiếp thì trongtruyện ngắn nó đợc bộc lộ qua hình tợng nhân Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn10Luận văn tốt nghiệpKhi tìm hiểu phong cách của tác giả phải đi sâu vào tìm hiểu phongcách thể loại. Cùng một đề tài, cùng một cảm hứng sáng tạo nhng trên nhữngthể loại sáng tạo khác nhau thì cho những hiệu quả nghệ thuật khác viết về tình yêu nhng thơ của Xuân Quỳnh sẽ khác với truyện ngắn của"Tự lực văn đoàn" nh Hồn Bớm mơ tiên" Nhất Linh; "Nửa chừng xuân" củaKhải Hng. Tất nhiên mỗi thể loại nó đặc biệt phù hợp với một đề tài, một sởtrờng ngôn ngữ của từng tác ca ngợi chiến công của dân tộc trong chiến tranh thì thể trờng ca làphù hợp nhất. Khi nói lên nỗi niềm xót ca đối với ngời đã khuất thì thế vănvẫn nh điếu văn sẽ mang lại hiệu quả tối loại không đồng nhất với phong cách. Nhng chúng ta vẫn có đọctác phẩm mà phân biệt đợc thể loại của nó. Chỉ những thể loại nào có đợc mộtcách nhìn mới riêng thì lúc đó mới có phong cách. Không phải thể loại nàocũng có phong cách Phong cách nhà vănTrong sáng tạo nghệ thuật, bất cứ một nhà văn nào cũng muốn tạo chomình một phong cách riêng nh phong cách Nam Cao, phong cách Xuân Diệu,phong cách Nguyễn Tuân... Tuy vậy phải là nhà văn thực sự có tài, có bản lĩnhmới tạo đợc phong cách riêng. Khi nhà văn tạo đợc phong cách độc giả chỉcần đọc một câu văn cũng có thể nhận biết nó là của tác giả nào tất nhiên độcgiả cũng phải là ngời hiểu biết về văn học. Phong cách của nhà văn trở thànhcác hình mẫu trong văn học. Phong cách là những nét riêng của từng tác giả đợc lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm, mang tính ổn định và lâu dài. Cái đợclặp đi lặp lại đó có thể là cách dùng từ, cách đặt câu, lối diễn đạt, miên tả củanhà văn...Phong cách của nhà văn chịu sự chi phối của các yếu tố xã hội nh bảnsắc dân tộc, phong tục tập quan nơi nhà văn sinh sống... và các yếu tố củachính cá nhân nhà văn nh yếu tố tâm lý, t tởng thẩm mĩ, t tởng chínhtrị, trình độ thẩm mĩ, trình độ văn hoá. Tất nhiên yếu tố chủ quan là yếu tốquan trọng và quyết định phong cách của nhà một nhà văn đã hình thành đợc phong cách thì phong cách nhà vănsẽ tơng đối ổn định. Tuy nhiên cũng nh văn học, phong cách chịu sự chi phốicủa sự vận động xã hội nên nó cũng có biến động. Nhng những biến động nàylà tuỳ vào từng thời điểm và nó thờng không xa rời phong cách nhà văn. Mộtnàh văn không thể có sự biến động từ phong cách này đến phong cách Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn11Luận văn tốt nghiệpNh vậy, nghiên cứu phong cách nhà văn chính là tìm những nét riêngcủa nhà văn đó so với các nhà văn khác. Đề làm đợc điều này chúng ta cầnkhảo sát một số lợng lớn tác phẩm của nhà văn để tìm ra những yếu tố tạo nênphong cách của nhà văn. Từ đó chúng ta mới có thể rút ra những nhận xét,đánh giá về phong cách của nhà Về thể loại truyện ngắnTruyện ngắn là "thể loại tác phẩm tự sự cỡ nhỏ". Với đặc trng là "ngắn"cho nên nhiều khi làm cho truyện có vẻ gần gũi với các hình thức nh truyệnngắn kể dân gian, giai thoại... hay bài ký ngắn. Thực ra nếu nh nói nh vậychúng ta chỉ mới đánh giá nó ở góc độ dung lợng ngôn từ mà thôi. Thực chấtnó gần với tiểu thuyết hơn cả. Nếu nh tiểu thuyết đi dọc theo chiều dài củacuộc sống thì truyện ngắn là một nhát cắt ngang của cuộc sống. Truyện ngắncó thể kể cả về một cuộc đời con ngời nh "Chí Phèo" Nam Cao hay mộtđoạn đời "Tớng về hu" Nguyễn Huy Thiệp hay một sự kiện trong cuộc sốngnh "Mảnh trăng cuối rừng" Nguyễn Minh Châu.Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sựđầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn đi sâu vào khám phá một nét, một sựkiện. Vì vậy thời gian của truyện ngắn ngắn hơn tiểu thuyết. Số lợng nhân vậtvà sự kiện cũng ít hơn tiểu thuyết. Nếu mỗi nhân vật trong tiểu thuyết là mộtthế giới với bao biến cố lớn lao thì nhân vật của truyện ngắn là một mảnh nhỏtrong thế giới ấy. Cốt truyện của nó cũng thờng đơn giản hơn tiểu tố quan trọng nhất của truyện ngắn là những chi tiết đặc sắc, đợcchọn lựa một cách kỹ càng, có dung lợng lớn. Lối hành văn nhiều ẩn ý tạo chonó một chiều sâu nhất định mà ngời đọc không dễ gì chiếm lĩnh hết cấu của truyện ngắn thờng là một sự tơng phản, liên tởng khôngchia thành nhiều tầng nhiều bậc nh trong tiểu thuyết hay các thể loại khác. Bútpháp của truyện ngắn thờng là chấm phá hơn là đi vào phân tích miêu tả kỹ lỡng. Tuy nhiên do dung lợng của truyện ngắn và các đặc điểm khác nêntruyện ngắn thờng dễ đọc, thu hút đợc đông đảo độc giả. Có rất nhiều nhà vănnổi tiếng mà không ở thể loại tiểu thuyết chỉ ở thể loại truyện ngắn nhSêkhếp, Gorki, Lỗ Tấn, Môpaxăng, Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp...Tóm lại truyện ngắn là một thể loại của văn học. Nó hình thành khámuộn trong lịch sử văn học nhân loại. Nó mang những đặc trng rất tiêng sovới các thể loại khác. Tuy nhiên ở bất cứ thể loại nào cũng vậy, sự phân chianày chỉ mang tính tơng đối để tiện cho việc tìm hiểu và nghiên Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn12Luận văn tốt nghiệpVIII. Ngôn ngữ truyện ngắnTruyện ngắn bao gồm những chuyện trong đời sống. Những mẩuchuyện vụn vặt đợc nhà văn nhào nặn, sử dụng ngôn ngữ và các thủ pháp nghệthuật để sáng tạo ra ngữ truyện ngắn nh vậy trớc hết là ngôn ngữ đời sống, bắt nguồntừ đời sống. Tuy vậy ngôn ngữ truyện ngắn cũng khác với ngôn ngữ của cácthể loại khác nh thơ, trờng ca, tiểu thuyết, kịch...Thơ thờng đợc các tác già sử dụng ngôn ngữ du dơng và có nhạc điệu,nhịp điệu. Ngôn ngữ truyện ngắn lại khác. Truyện ngắn phản ánh sống con ngời, những lát cắt của cuộc đời nên mang nhiều yếu tố "hỗn loạn" của cuộcsống. Nó cũng có khi du dơng ngân nga, nhng cũng có lúc hiện thực, trần thuyết có quy mô đồ sộ hơn truyện ngắn, Ngôn ngữ của tiểu thuyếtđợc sử dụng rộng rãi hơn, dừng lại ở nhiều hơn lúc miêu tả tâm lý nhân vậtcũng nh không gian, thời gian, Ngôn ngữ truyện ngắn phải thật sự cô đọng,thật sự đa nghĩa để diễn tả hết đợc ý đồ nghệ thuật của tác kịch là xâu chuỗi các đối thoại và độc thoại của nhân vật thì truyệnngắn lại vừa có đối thoại, độc thoại, vừa có những phần miêu tả, phân tích tâmlý nhân vật, miêu tả thiên nhiên, không gian... Ngôn ngữ kịch chủ yếu là ngônngữ của nhân vật, rất ít ngôn ngữ của tác giả. Ngôn ngữ truyện ngắn là sự đanxen giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ của nhà vậy, ngôn ngữ truyện ngắn măng đặc điểm của cả ngôn ngữ thơ,ngôn ngữ tiểu thuyết, ngôn ngữ kịch... Tuy vậy nó mang những đặc điểm rấtriêng để không lẫn với đặc điểm ngôn ngữ của các thể loại Nguyễn Huy Thiệp với thể loại truyện ngắn1. Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950 tại Hà Nội. Ông sinh ra trong mộtgia đình không mấy hạnh phúc. Bố của Nguyễn Huy Thiệp sống với dì ghẻnên hết sức vất vả và cực khổ. Điều này cũng một phần tạo cho ông một cáchnhìn "dữ tợn và hằn học" đối với cuộc sống ngay từ thuở Huy Thiệp lớn lên học khoa Sử của Đại học S phạm Hà khi tốt nghiệp, ông dạy học ở Tây Bắc. Đợc một thời gian, tác giả chuyểnvề công tác ở kho sách của Cục xuất bản. Trong thời gian này ông từng làm cảviệc "buôn lậu" giấy. Tiếp đó ông làm rất nhiều nghề nh vẽ quảng cáo, vẽtranh sơn dầu, làm gốm, mở nhà hàng...Hoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn13Luận văn tốt nghiệpNguyễn Huy Thiệp bắt đầu sáng tác từ thời còn dạy học ở Tây Bắc vàokhoảng những năm 70 nh "Trái tim Hổ", "Con thú lớn nhất", "Nàng Bua"1971.Nguyễn Huy Thiệp đợc đông đảo bạn đọc biết đến là từ lúc cho intruyện ngắn "Tớng về hu". Sau này ông sáng tác khá nhiều và thành công chủyếu là ở thể loại truyện Ngày 20 - 6 - 1987 có thể xem là một ngày đặc biệt của văn chơngViệt Nam. Có một con ngời nói đúng hơn là một nhà văn trẻ đã gióng lên"tiếng chuông báo động sự xuống cấp trong biểu hiện cụ thể của một số chuẩnmực xã hội" trích lời Nguyễn Hoà. Con ngời đó chính là Nguyễn Huy Thiệpvới tác phẩm truyện ngắn "Tớng về hu" đăng trên báo Văn nghệ."Tớng về hu" ra đời đã ngốn biết bao giấy mực của các nhà nghiêncứu, thậm chí của các lớp độc giả khác. Nếu nh nói một cách hơi quá thì "Tớng về hu" là một mốc lớn trong lịch sử phát triển dân tộc. Năm 1987 nghĩa làchỉ sau công cuộc đổi mới một năm, một tác phẩm ra đời trong cái nếp cũ chavội quên khiến ngời ta khó chịu. Tác phẩm viết về ngời lính nhng dới một gócnhìn hoàn toàn khác. Ngời lính mà cái đáng đợc ngời khác quan tâm nhất chỉở đòm một phát là sớng" lời của nhân vật ông Bổng, nghĩa là chỉ có cái chếtlà thanh thản nhẹ nhàng đáng mơ Huy Thiệp trình làng văn học Việt Nam với một tác phẩm đầysự tranh luận nh vậy. Tiếp sau đó là hàng loạt các tác phẩm truyện ngắn khácra đời nh Huyền thoại phố phờng", "Chút thoát Xuân Hơng", "Kiếmsắc", "Vàng lửa", "Phẩm tiết", "Những ngọn gió Hua Tát cụmtruyện...truyện nào của Nguyễn Huy Thiệp cũng gây cảm xúc mạnh mẽ tronglòng ngời đọc, cho dù đó là sự xúc động, sự bứt rứt khó chịu hay một sự tứctối, bức xét theo trình tự thời gian sáng tác thì một trong những truyện ngắnđầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp viết về cuộc sống hiện đại là "Cún", đợc viếtnăm 1984."Cún" là một câu chuyện cảm động về khát vọng một "hình nhân mặtđẹp". Một khát vọng đầy bản năng nh rất đáng trân trọng. Cún chẳng có gì,thân phận ăn mày, lại dị tật. Đợc làm bố quả là một điểm ngoài tầm mơ phúc cũng mỉm cời với Cún. Một sự hiểu lầm đĩ thoả đầy khốn nạn củaCô Diệu đã giúp Cún có đợc mơ ớc. Cuộc đời đôi khi thật cồng bằng. Chuyệnđợc đặt trong một tình huống khá khôi hài và bất ngờ. Nhng đây chỉ là cái vỏche đậy ý tởng của Nguyễn Huy Thiệp mà Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn14Luận văn tốt nghiệpTiếp theo dòng cảm xúc đầy nhân văn đấy là tác phẩm "Chảy đi sôngơi" viết năm 1985. Một sự xót thơng cho chị Thắm, một tiếng gọi ráo riết"Đò ơi... ơi đò ! Đò ơi ! Ơi đò !" không có lời đáp trả, nó vang vọng mãi trongkhông gian mênh mông. Những câu hỏi lớn không lời đáp trả "con trâu đen,con trâu đen trong thời thơ ấu của tôi nay ở đâu rồi ?"Tất cả sự nhẹ nhàng, đầu chất thơ đã lùi lại phí sau khi "Tớng về hu"hoàn thành 1985. "Tớng về hu" là sự tổng hợp của các mẩu đối thoại. Haynói đúng hơn thông qua đối thoại mà con ngời cứ hiện dần ra, rõ hơn, cụ loạt sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đều rất đợc đông đảo bạnđọc, nhà nghiên cứu trong và ngoài nớc quan tâm. Điều này chứng tỏ ông rấtthành công trong thể loại truyện ngắn. "truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệpkhuấy động tâm can chúng ta, về nhiều phơng diện, đời sống, suy t, văn họcnghệ thuật, triết lý, thân phận con ngời" Đỗ Đức Hiếu và chính Đỗ Đức Hiếucũng khẳng định rằng "Nhịp mạnh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làtình yêu. Tình yêu con ngời, tình yêu loài ngời là tinh thần bao trùm tác phẩmcủa anh". Không còn nghi ngờ gì nữa, chính tình cảm chân thành của NguyễnHuy Thiệp dành cho cuộc sống đã khiến độc giả đến với ngắn của anh rất lạ, rất sâu sắc, rất đặc biệt. Nó không hề xa rờivới cách viết á Đông, cũng không lạc hậu với phơng Tây. Truyện ngắn củaanh là truyện ngắn của mọi đối tợng, mọi dân tộc đều có thể đọc đợc, cảm thụđợc. Truyện của anh thoát ra khỏi những ràng buộc về chính trị tầm thờng, vơnlên một tầm cao hơn, một khát vọng lớn lao và đợc truyện theo cách riêng củaông đó chính là con ngời Nguyễn Huy Thiệp từng cho rằng "Tôi sinh năm1950 ở miền Bắc. Tôi thuộc thế hệ nhà văn sau chiến tranh, thế hệ sau đó, cá nhân thực thể không đợc quyền nói đến trong văn học, chính trịbao trùm tất cả. Nhng đến thế hệ tôi, vấn đề cá nhân đã trỗi dậy, tạo nên mộtgiai đoạn mới. Điều tôi quan tâm là nói về cá nhân với những niềm vui và nỗikhổ của nó, những đam mê, hy vọng của nó. Tôi cũng viết về những tình cảmhung bạo, sự hung bạo này có trong quan hệ nhân sinh". Nh vậy những chi tiếttrong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đều là một biến động của cuộc dù nó trần trụi, ô trọc thì đều đáng tôn trọng. Cho dùđó là điều gì chăng nữa thì ông vẫn đang ca lên bài ca ca ngợi cuộc sống,muốn chắp thêm khát khao hy vọng cho cuộc Huy Thiệp là hiện tợng còn nhiều tranh cãi. Tất cả dờng nh chỉmời là khúc dạo đầu cha ngã ngũ. Trớc mắt tác giả là cả một chặng đờng dàiHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn15Luận văn tốt nghiệpthử thứch cả tuổi đời lẫn tuổi văn. Chúng tôi những độc giả chân thành trântrọng cái đẹp, cái mới luôn hy vọng ở tác giả một con ngời có tài có thể nói làtài hoa có những cống hiến hơn nữa cho truyện ngắn Việt Nam. Chúc tác giảluôn giữ đợc cái "tâm" vì con ngời vì cuộc sống. Chúng ta hoàn toàn hy vọngsẽ từ đây có một bộ mặt mới, một diện mạo mới cho nền văn học Việt Namnói chung và truyện ngắn Việt Nam nói lại, chúng tôi đã đề cập đến một số vấn đề lý luận có liên quan đếnđề tài. Cụ thể là tìm hiểu và thống nhất những khái niệm nh phong cách,phong cách nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ, ngôn ngữ nghệ thuật, phongcách thể loại, phong cách nhà văn. Đồng thời chúng tôi cũng đã tìm hiểu bớcđầu các đặc điểm của thể loại truyện ngắn, phân biệt nó với các thể loại đầu tìm hiểu và đánh giá vị trí và đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp đốivới nền văn học Việt Nam hiện Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn16Luận văn tốt nghiệpchơng IIđặc điểm ngôn ngữ trong truyện ngắn nguyễn huythiệpi. đặc điểm về từ ngữ1. Sử dụng nhiều từ ngữ thông Ngôn ngữ thông tục là lời ăn, tiếng nói của nhân dân lao động hàngngày. Nó có thể là tiếng la hét, lời cảm thán thể hiện thái độ ái, ôi, a... nhữngtừ ngữ mang sắc thái địa phơng, cá nhân mô, tê, răng, rứa....Biểu hiện sâu sắc và rõ nét nhất của ngôn ngữ thông tục là tiếng chửi,lời nói tục. Tiếng chửi thốt ra khi bản thân ngời chửi có sự bực dọc, không kìmchế đợc bản thân, muốn hạ thấp ngời khác, áp đặt ngời khác theo ý của mìnhhoặc là một lời khen, lời chê. Vì tiếng chửi là đại diện rõ ràng nhất của ngônngữ thông tục nên việc tìm hiểu ngôn ngữ thông tục phần lớn chúng tôi tìmhiểu tiếng chửi, lời nói tục. Biết rằng đây là một vịêc làm cha thật khoa họcnhng vì trình độ cha thể phân định đợc một cách rành mạch giữa ngôn ngữ vănhọc và ngôn ngữ thông tục nên chúng tôi đề xuất phơng án này để đảm bảotính chính xác khi tìm hiểu ngôn ngữ thông tục trong truyện ngắn NguyễnHuy Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn thờng xuyên sử dụng từ ngữthông tục trong tác phẩm của mình. Từ loại mà ông sử dụng hầu hết là cácthực từ nh danh từ, động từ, tính Danh từ Đợc ông sử dụng rất nhiều, nó có thể là danh từ chỉloại, có thể là danh từ tổng hợp...Ví dụ Cái thằng bố ô trọc ấy! Đồ phóng tình phóng đãng! Vị trởnggiả cộc cằn! Nhà lập pháp bẩn thỉu! Tên bạo chúa khốn nạn!"Muối của rừng.Mẹ mày! Ông đánh cho chết mẹ mày đi!""Mẹ mày! Giữ lấy cái mũi!""Đánh đi! Đánh chết mẹ nó đi"Con gái Thủy ThầnNó có thể là danh từ chỉ chất liệu Hát nh cứt Trơng Chi là thứ giảnhân cha thành ngời, những bệnh tật đáng kinh tởm, hoặc là những động vậtbẩn thỉu Tri thức chi mày, lời nh hủi"; "Đổ ruồi nhặng Không có vua.Đồ ngu nh chó Chảy đi sông ơi. Có thể là những loại ngời mà xã hộiHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn17Luận văn tốt nghiệpkhinh rẻ Đồ gái xề, béo nứt bụng Đời thế mà vui. Hoặc là những bộ phậntế nhị của con ngời Thằng mặt ranh kia! Kề miệng lỗ mà vẫn còn dê ? Tacắt dái mày!" Phẩm tiết ; Một tay dí chim vào đít cái Lợc ; Có hai hòndái qúy nhất thì cắt đi rồi còn đâu" Những bài học nông thôn. Đó có thể là những tính từ Anh khốn nạn lắm, con bé còn íttuổi" Những ngời thợ xẻ; "Anh bỉ ổi hệt nh ba mơi triệu ngời đàn ông cùngthời với anh"; "Cút đi! Đồ đàn ông khốn nạn các anh" Con gái Thủy Thần;"Ba tuổi ranh đã dâm" Đời thế mà vui. Có khi là những động từ Chàng trật quần đái vọt xuống sôngTrơng Chi.Nhân vật sử dụng từ thông tục rất đa dạng Đó có thể là những bậc caonhân nh Đề Thám Ma Nhã Nam, Quang Trung, Nguyễn ánh Phẩm tiết,Nhân vật cổ tích nh Trơng Chi, có thể là những tên lu manh nh Bờng Nhữngngời thợ xẻ,Trùm Thịnh Chảy đi sông ơi, vị tớng nh tớng Thuấn Tớng vềhu. Nó có thể diễn ra trong lời đối thoại hoặc trong lời độc những từ thông tục mà Nguyễn Huy Thiệp sử dụng thì từ cứt đợc ông hay dùng hơn cả. Từ này xuất hiện rải rác trong các truyện. Có truyệnông sử dụng từ cứt tới 13 lần Trơng Chi. Có khi ông dành hẳn một truyệnđể miêu tả và nói về một dạng cứt là phân Giống cà pháo, cà bát rấthợp với việc bón phân tơi, nhất là phân ngời. Ngời ta dùng phân để bón cholúa nhng phân bón cho lúa phải đợc ủ mục ra cho phân chín. Thếnào là ủ phân? Phân tơi có nhiều loại Phân trâu bò, phân lợn, phân gà gọichung là phân chuồng, phân ngời còn gọi là phân bắc nhng đợc a quýhơn cả là phân lợn, phân gà. Phân lợn quý vì nó mát, có thể dùng ngay, bón đợc ngay cho cây mà cây nào cũng hợp. Phân gà cũng qúy nhng phân gà nóng,chỉ hợp cho bón cây ớt mà thôi. Riêng phân ngời phân bắc có lẽ bởi cónhiều đạm, nhiều chất khó phân huỷ nên bón trực tiếpcho cây thì xót, chếtngay, riêng chỉ cây là chịu đợc, lại hợp với bón loại phân này. Nhìn chung, tấtcả các loại phân cần phải đợc ủ ra mới nên dùng. Chuyện ông Móng. Hình nh Nguyễn Huy Thiệp có một cái gì đó bất bình với cuộcsống nên ông liên tiếp văng tục, có lẽ ông muốn tìm về với nguyên hình bảnchất cuộc sống nên ông bê nguyên xi lời ăn tiếng nói của nhân dân vào trongtruyện ngắn của mình. "Ông khinh cả những ngời không dám sống thực, khôngdám lặn sâu dới đáy cuộc đời" Chút thoáng Xuân Hơng nhng Nguyễn HuyThiệp cũng khắt khe với mình rằng Ông khinh cả những kẻ lặn sâu xuốngđáy rồi ngập luôn ở đấy không sao lên đợc" Chút thoáng Xuân Hơng.Hoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn18Luận văn tốt nghiệpNghĩa là phải biết nhận ra cái xấu, cái tốt của cuộc đời, phải biết lựa chọn cácyếu tố của cuộc sống, phải biết giữ mình. Phải là một ngời thật từng trải mớicó thể thực hiện đợc điều này. Không giữ nổi bình tĩnh Nguyễn Huy Thiệpvăng tục, cái tục này dĩ nhiên là rất đời nhng cũng rất thánh. Sự văng tụclà sự phản ánh của tác giả vào cuộc sống xô bồ hôm nay Tôi biết giây phútrốt đời Trơng Chi cũng sẽ văng đấy không phải lỗi ở chàng" TrơngChi. Văng tục là một cách giao tiếp với cuộc sống, để thấy rõ và lột trầnbản chất của nó mà Các lớp từ ngữ Từ Hán ViệtTừ Hán Việt là lớp từ chiếm số lợng rất lớn trong vốn từ tiếng Việt60%. Có rất nhiều tác giả trong tác phẩm của mình sử dụng từ Hán chỉ là những tác phẩm và tác giả trung đại mà ngay cả các tác phẩm,tác giả thời hiện đại cũng vậy Tô Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Khải,Ma Văn Kháng...Nguyễn Huy Thiệp viết khá nhiều truyện ngắn về các nhân vật lịch sửnh Quang Trung, Nguyễn ánh, Đặng Phú Lân Phẩm Tiết, Vàng lửa, Kiếmsắc, Nguyễn Trãi Nguyễn Thị Lộ, Đề Thám Ma Nhã nam. Trong cáctruyện ngắn này, dĩ nhiên sử dụng từ Hán Việt là phù hợp nhất để tái hiện lịchsử. Vì vậy, Nguyễn Huy Thiệp sử dụng rất khi một lời kể của tác giả Nguyễn Phúc ánh ở Gia Định tìm cáchlật đổ Tây Sơn khi này thế đã mạnh. ánh là ngời đa mu, túc kế, tính kiên trìkhông tin ai, lấy chữ hiệp, chữ lễ làm trọng, không coi nhân, nghĩa, lễ, trí, tínra gì" Kiếm sắc.Có khi là lời đối thoại của nhân vật Sâm nói Đại nhân chớ băn khoănvề chuyện cơ hội hay không cơ hội. Điều ấy vô nghĩa. Có điều Quang Trungđang thịnh lễ đời là phải phù thịnh, đại nhân cứ thế mà làm. Ta không phùQuang Trung sợ cơ ngơi này khó bảo toàn, lấy ai tiếp nối? Lính Tây Sơn chỉcho mồi lửa, vu cho tàn quan Tôn Sỹ Nhị là xong. Lúc đó biết kêu ai? Khôngnói đến đại nhân bị hại, bọn Sâm này cũng mất nhiêu cơm Phẩm tiết.Cũng có lúc là một lời phán đoán tiên tri về cuộc đời co ngời "Ông làngời cơ mu, gian hùng, nhng lòng rộnglợng, trọng nghĩa khinh tài, cả đờikhông chịu thiếu thốn tiền nong, vinh hoa, phú quý đủ cả. Cái gì ông cũngtinh tế. Ông là hổ vàng, ngời đời theo ông còn mệt. Tháng này ông cũng cóhạn, xin ông giữ mình Giọt máu.Hoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn19Luận văn tốt nghiệpHiệu quả sử dụng từ Hán Việt của Nguyễn Huy Thiệp thật rõ rệt. Trongtruyện viết về lịch sử từ Hán Việt đem lại một không khí rất Trung đại, nótạo nên chất hiện thực. Khi bà Phơng bói cho Thiều Hoa Giọt máu tác giảđể bà Phơng sử dụng từ Hán Việt tạo nên cho bà một cốt cách đài các, thấy đợc một kiến thức rất uyên thâm, giọng điệu của con ngời có học thời Trung đạiTha bà, bà cốt cách sang quý, mông to đầu nhỏ, đây là tớng mệnh phụ phunhân, từ bé tới lớn không phải vất vả gì, đi đâu cũng đợc mọi ngời yêu hai đời chồng. Miệng cời tơi là chuyện thị phi có nhiều, nhng dù có tội vẫnđợc chồng tha. Trên trán có vệt u tối, nhân trung méoxệch, tháng này đại nạn,sợ rằng khó toàn tính mạng. Những lời nói của bà Phơng đa ngời đọc vàomột không khí trang nghiêm, huyền bí, những từ nh mệnh phụ, nhântrung", "cốt cách", tính mạng, "số"... dẫn ngời đọc đến cõi thần linh, bói toán,tớng Từ địa phơngNguyễn Huy Thiệp là nhà văn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ôngđi nhiều, biết nhiều vì thế mang theo cả hơi thở của mỗi vùng miền Việt Namvào trong tác phẩm của mình, thể hiện qua cách ông sử dụng từ điạ địa phơng là lớp từ dùng riêng cho một cộng đồng dân c nhỏ trênmột địa bàn hẹp nh một vùng, một tỉnh, một huyện. Thậm chí là một làng vớimấy chục nóc trừ văn học dân gian từ địa phơng thờng ít đợc sử dụng trong vănhọc. Tuy vậy, khi nó xuất hiện thì lập tức trở thành một dấu hiệu nghệ thutđáng chú ýTrời ơi em biết khi môThân em hết nhục dày vò năm canhTiếng hát Sông Hơng - Tố HữuTừ mô là phơng ngữ miền Trung. Nó vừa mang vẻ chân thật lại vừacó nét gì đó thống thiết, tủi hờn. Nó mang lại một cảm giác man mác cho Huy Thiệp là ngời đã từng dạy học nhiều năm ở Tây Bắc. Vìvậy, trong tác phẩm của mình ông sử dụng rất nhiều từ địa phơng của đồngbào dân tộc thiểu số vùng này. Qua từ địa phơng, ta có thể thấy đợc những nétvăn hoá rất đặc trng của đồng bào dân tộc Tây Bắc. Điều này thể hiện rõ nétHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn20Luận văn tốt nghiệpnhất trong cụm truyện ngắng phỏng cổ tích Những ngọn gió Hua Tát Mờitruyện trong bản nhỏ.Những từ nh cây me loi, xeo thịt, khau cút, quản, mờng, sao khun lú- Nàng ủa, xoè, mó nớc, then, vàng kiềng, còn, khèn, bạc hoa xoè, món lạp,côn hơn, con don, con díp... tạo nên một sắc thái đồng bào vùng cao màkhông lẫn với bất cứ vùng nào khác đợc. Nó mang lại một sắc thái vừa đầmấm, vừa giản dị, lại rất chân cạnh đó, Nguyễn Huy Thiệp còn sử dụng từ điạ phơng trong cáchđặt tên nhân vật nh Lù, Hếch, Nàng Sinh, Hà Văn Nó, Sạ, Mùa, Khó, Muôn,Pành... cộng với các địa danh nh Hua Tát, Mờng Hơm... đã góp phần tạo nênmột không khí Tây Bắc, khiến cho ngời đọc nh đang trực tiếp sống trong, sốngcùng với đồng bào ở đây. Ngời đọc cũng cảm nhận đợc những nét văn hoá đặcsắc bằng một sự cảm nhận văn Từ lịch sử - thành ngữ, tục ngữ dân Chúng tôi tạm gọi từ lịch sử là những từ cổ, thờng xuất hiện tronglịch sử mà hiện nay đã ít hoặc không sử dụng nữa. Hơn nữa, những từ này lạimang một không khí rất lịch sử trong tác phẩm. Nó nh tái hiện lại chân thựcvà sinh động lịch sử trớc mắt ngời đọc. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn viếtnhiều về đề tài lịch sử, dĩ nhiên ông chọn sử dụng lớp từ này nhiều sẽ mang lạihiệu quả cao nhất cho tác phẩm của vật lịch sử đợc đề cập rất nhiều. Có thể là loại bậc vua chúaQuang Trung, Nguyễn ánh Phẩm tiết, Vàng lửa, Kiếm sắc. Những bậc anhhùng nh Đề Thám Ma Nhã Nam, những ngời kiệt xuất Nguyễn TrãiNguyễn Thị Lộ, Hồ Xuân Hơng Chút thoáng Xuân Hơng, Tú Xơng Thơng cả cho đời bạc.Những tổng, tiền Cảnh Hng, quận chúa, võng lọng, chiêu ấm. Nhogiả, từ đờng, lính lệ, công đờng, tri huyện, thánh hiền, thiên di...Chút thoáng Xuân Hơng.Những thâm hậu, đa mu, túc kế, trợng phu, quốc thù, hịch, danh sỹ,chiêu mộ...Kiếm sắc.Những đồng cân, đồng trinh, quan, quách, thân phụ, cung tần, mỹ nữ,phi tần, Đế Vơng, Bệ hạ.Phẩm tiết.Hoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn21Luận văn tốt nghiệpTất cả tạo nên một không khí hết sức cổ kính, lịch sử đợc tái hiện, bóctrần một cách chân thực không thể gợng gạo. Sử dụng và cảm nhận lớp từ nàyđòi hỏi cả tác giả lẫn độc giả có một kiến thức uyên thâm về ngôn Thành ngữ, tục ngữ là lời ăn tiếng nói của nhân dân đợc hìnhthành trong quá trình lao động. Các đơn vị ngôn ngữ này đợc sử dụng nh mộttừ trong cấu trúc văn bản. Khi tác phẩm văn học sử dụng thành ngữ, tục ngữnó tạo đợc nét văn hoá rất riêng của văn học Việt Nam, đồng thời cũng tạonên sự giản dị mộc mạc, gần gũi với nhân nh các nhà văn khác, Nguyễn Huy Thiệp cũng sử dụng thành ngữ,tục ngữ trong tác phẩm của dụ Môn đăng hộ đối, nghĩa tử là nghĩa tận, cáo chết 3 năm quayđầu về núi, khác máu tanh lòng, ngậm miệng ăn tiền, cha đa mẹ đón, nớc mắtcá sấu, khóc nh cha chết.Tớng về hu.Phàm phu tục tử, ba đầu sáu tay, có thực mới vực đợc đạo, tiền oannghiệp chớng.Không có vua.Vinh phân phì da, Kính nhi viên chi, Nhất cử lỡng tiện.Chăn trâu cắt cỏ.Tuy mức độ xuất hiện thành ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệpkhông nhiều, nhng khi xuất hiện thờng đem lại hiệu quả nghệ thuật rất thờng sử dụng rất đúng chỗ và sáng tạo các thành ngữ, tục ngữ đem lạinhững nét nghĩa rất dụ Trong tác phẩm Tớng về hu. Khi bà nội mất và đợc ngời ta nhéttiền vào miệng nh một tục lễ của dân tộc thì đứa cháu hỏi bố Đó có phải là"ngậm miệng ăn tiền" không hả bố?. Nó cho ta một cảm giác rất đau đớn trớcsự ngây thơ của đứa trẻ. Ngời đọc cảm thấy xót xa, rùng rợn trớc một hiệnthực hết sức đau lòng. Rõ ràng, thành ngữ ngậm miệng ăn tiền là có ý phêphán những ngời luôn cúi, tham lam nhng ở đây đợc đặt vào nhân vật là bà nộilại đợc phát ngôn từ đứa cháu nội hoàn toàn không hiểu gì về câu thành ngữtrên. Nó đem lại một hiệu quả nghệ thuật cao. Nó làsự nhầm lẫn của một tác giả cao tay để nói lên một hiện thực đau đớn mộtcách không hề gợng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn22Luận văn tốt nghiệpNhân vật sử dụng thành ngữ, tục ngữ có nhiều nhng nổi bật hơn cả vẫnlà những ngời dân bình thờng nh ông Cơ Tớng về hu, những ngời va vấpnhiều với cuộc sống nh Bờng Những ngời thợ xẻ.Có khi Bờng sử dụng thành ngữ, tục ngữ nh một thú vui của cuộc là thứ vần vè tiêu khiển kiểu"Thạch Sanh đốn củi trên cho công chúa kéo càng lệch vaiHay"Thơng anh thì để trong lòngXin em đừng có lòng thòng với ai"Có khi là một câu nói rất cay cú, hờn mát kiểu Sống dầu đèn, chết kèntrống", tởng gì mà tởng lạ thế".Qua cách nói vấn vè của Bờng ta có thể nhận thấy anh là một ngời rấttừng trải với cuộc sống, rất gần với nhân dân lao động. Mà anh là một ngờidân lao động Sử dụng lớp từ ngữ hiện đạiNguyễn Huy Thiệp là một nhà văn của nền văn học Việt Nam hiện nhiên, ngôn ngữ của ông sử dụng cũng rất hiện đại, Nguyễn Huy Thiêpị cócách dùng từ hiện đại khiến ngời đọc rợn ngời. Bên cạnh ngôn ngữ của mộtvị vua đầy tính ớc lệ, uy nghiêm là những từ ngữ kiểu thằng mặt xanh kia, kềmiệng lỗ mà vẫn còn dê ? Ta cắt dái mày, Ta cho mày ăn cứt". Rõ ràng đâykhông phải là lớp từ ngữ đợc các vị vua yêu dùng. Yếu tố hiện đại đây làcách dùng từ của Nguyễn Huy Thiệp trong ngữ cảnh và ở đối tợng phát thể hiện đợc xuất sắc nhiều con ngời trong một con ngời. Vua vừa là ngời đứng đầu đất nớc, rất uy nghiêm nhng vẫn là một con ngời phàm tục. Giá trịcuộc sống nh bị đảo lộn. Tốt xấu nhập nhằng. Xét cho đến cùng thì khôngphải giá trị cuộc sống đảo lộn mà con ngời cố gồng mình lên để chống đỡnhững quy định khắt khe của xã là Nhà vua thở dài" "Sứ mệnh đế vơng thật là sứ mệnh khốn nạn- chỉ đợc quyền cao cả, không đợc quyền đê tiện". Những từ ngữ mà vị vuanày dùng cho đến nay cũng rất ít ngời cầm đầu đất nớc giám nói nh thế. Lịchsử vẫn là lịch sử nhng đúng trớc lịch sử, Nguyễn Huy Thiệp có một cách đánhgiá, nhìn nhận hết sức mới lạ. Mới lạ quá cũng khiến nhiều ngời không chịuHoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn23Luận văn tốt nghiệpđựng đợc nhng cũng là đặc điểm khiến cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệphấp dẫn ngời hiện đại không hẳn là những từ ngữ vay mợn ngôn ngữ Châu Âu,ngôn ngữ đợc dùng cho những phát minh hiện đại... Vốn từ là một tổng thể cósẵn, dĩ nhiên nó cũng mang quy luật biến đổi theo sự vận động của xã hội, lịchsử. Tuy vậy, nhìn chung chúng rất khó và ít biến đổi. Nhà văn hiện đại hoá từngữ thực chất là cách vận dụng, sắp xếp từ ngữ. Những từ nh thủ dâm" hay"chính trị" là những từ không hề mới nhng khi đợc nhà văn kếthợp tài tình "thủ dâm chính trị" thì đem lại một hiệu quả ngôn ngữ rất mới lạ."Thủ dâm chính trị" là thói lừa phỉnh bản thân mình, dỗ dành mình bằngnhững lý luận chính trị của mình tự đa ra, nó chỉ là cái tạm thời, giả tởng hếtsức có hại. Nó từa tựa nh phép "thắng lợi tinh thần" của Aquy trong truyệnngắn cùng tên của Lỗ lớp từ ngữ nh từ thông tục, từ lịch sử, từ hiện đại... có rất nhiềunhà văn sử dụng. Nhng nét riêng tạo cho Nguyễn Huy Thiệp không thể lẫn vớibất cứ một nhà văn nào khác. Đó chính là cách sử dụng hài hoà, cân đói và rấtsáng tạo các lớp từ lớp từ hoà quyện trong nhau tạo nên nét rất mới nhng rất hài hoà vàkhông hề gợng gạo. Nếu nh Quang Trung chỉ nói là "ta xuất thân áo vải cờđào, vì nớc xả thân, dẹp yên bốn cõi. Thời chiến ta lấy kẻ có sức lực làm điểmtựa. Thời bình ta lấy kẻ trí lực làm điểm tựa. Nay các ông đến đây đều là ngờicó cửa, tức là những ngời có trí lực cả; ta cho ăn, cho uống. Xin các ông vì tamà mở mang công nghệ, bán buôn, làm cho nớc mạnh dân mạnh" Phẩm tiếtthì nó chỉ là một vị vua mang tính chất lịch sử y nguyên nh lịch sử mà làchính sử mà thôi. Nhng nhân vật Quang Trung trong truyện ngắncủa Nguyễn Huy Thiệp còn là "thằng Khải kia, tài bằng cái đấu, khinh ta quáchừng! Trời cho mày sống, cớp không biết bao nhiêu lộc của thiên hạ, ănngon mà không biết đậy mồm, còn chê là lợm. May nhờ phúc tổ, có ít củachìm, nh cái đuôi khô, tháng 3 ngày 8 đa ra gặm, tởng xênh xang ?" Phẩmtiết. Nó cho ta thấy con ngời nhiều mặt trong một con ngời rất đời. Sự hài hoàtrong cách sử dụng tạo nên một "mạng lới" phức hợp đem lại hiệu quả nghệthuật cao. Nó nh một tấm lới đợc đan kết bằng tất cả các cung bậc, mọi yếu tốcủa đời sống. Nó khiến cho độc giả của ông và đời sống không có khoảngcách. Nó không phải là ánh một cách thô thiển đời sống, cũng không nângbổng tô hồng đời sống. Mà nó là thứ nghệ thuật "thần thánh" của ngôn từkhiến cho văn học trở về đúng nghĩa với đời Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn24Luận văn tốt Sáng tạo mới, cách nói mớiNguyễn Huy Thiệp cha đến mức "làm xiếc với ngôn từ" nh NguyễnTuân, nhng trong các truyện ngắn của mình nhà văn cũng đã có rất nhiều sángtạo trong cách dùng từ hay sáng tạo ra từ Huy Thiệp thổi vào trong tác phẩm của mình bằng những cáchkết hợp hết sức xuất sắc và bất ngờ đem đến cho ngời đọc sự thú vị và cũng rấtsâu sắc."Khoa học giả cầy""Nền văn minh Trung Hoa cỡng hiếp""Dòng máu chứa đầy điển tích""Châu Âu chín chắn hẳn lên"Vàng lửahay"lẽ vô thờng lần đầu tiên tìm đến rón rén thăm dò tâm hồn tôi"Con gái thuỷ thầnthêm nữa"Chiều đánh rỗng nội tâm"Thơng nhớ đồng quêvà "Gây men cho lịch sử"Nguyễn Thị LộĐây là những cách kết hợp đem lại hiệu quả nghệ thuật rất cao. Chúngta sẽ rất bất ngờ khi tác giả dùng "Gây men cho lịch sử". Đó là quá trình thíchdục sự phát triển, hâm nóng tâm hồn, nhiệt huyết cho con ngời. Đổ vào tráitim lạnh ngắt của loài ngời một sức sống mới. Điều này thật có trong cách kết hợp "khoa học giả cầy" để nói một cách sâu sắc sựnguỵ biện, sự giả dối. Bản chất "khoa học" là sự sáng tạo và chính xác. Nhng"khoa học giả cầy" lại là sự nhân danh khoa học để đi ngợc lại với nó. Mộtcách sử dụng kết hợp thật đặc sắc, đầy ý cạnh đó, Nguyễn Huy Thiệp cũng góp phần làm đa dạng phong phúthêm vốn từ tiếng Việt."Khi rừng kết muối, đấy là điềm báo đất nớc thanh bình mùa màngphong túc"Muối của rừng.Hoàng Khánh Hng - Lớp 42B2 Ngữ văn25

phong cách nguyễn huy thiệp